![[Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại - Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói] - Chương XIV: Phá khuôn (Phần 3)](http://thitruongtudo.vn/upload/01_bai_viet/k240013_(1).jpg)
[Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại - Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói] - Chương XIV: Phá khuôn (Phần 3)
SỰ HỒI SINH Ở TRUNG QUỐC
Dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông, vào năm 1949, Đảng Cộng sản cuối cùng cũng đã lật đổ được chủ nghĩa dân tộc do Tưởng Giới Thạch cầm đầu. Ngày 1/10 năm đó, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập và các thể chế chính trị và kinh tế thiết lập sau đó đều mang tính chiếm đoạt. Kể từ thời điểm đó, không có một tổ chức chính trị nào khác được thành lập. Cho tới khi Mao Trạch Đông qua đời vào năm 1976, ông đã chi phối hoàn toàn Đảng Cộng sản và chính quyền Trung Quốc. Song hành với thể chế chính trị chiếm đoạt và độc tài ấy là các thể chế kinh tế chiếm đoạt. Ngay sau khi cầm quyền, Mao quốc hữu hóa đất đai và bãi bỏ mọi quyền sở hữu. Các địa chủ cũng như các thành phần phản động, chống chính quyền đều bị thanh trừng. Về cơ bản, nền kinh tế thị trường bị bãi bỏ. Dần dần, nông dân được tập hợp thành các công xã. Tiền và lương được thay thế bằng “điểm thưởng” để sử dụng trong trao đổi hàng hóa. Năm 1956, với mục đích gia tăng quyền kiểm soát về chính trị và kinh tế, giấy thông hành trong nước được ban hành rộng rãi, loại bỏ bất kỳ sự di chuyển trái phép nào. Tương tự, công nghiệp cũng bị quốc hữu hóa, và Mao Trạch Đông khởi xướng một nỗ lực đầy tham vọng: khuyến khích sự phát triển leo thang của các ngành công nghiệp thông qua các kế hoạch 5 năm, phỏng theo mô hình của Liên Xô.
Cũng giống như mọi thể chế chiếm đoạt, chính quyền Mao Trạch Đông ra sức bòn rút tài nguyên trên chính đất nước rộng lớn mà ông kiểm soát. Tương tự như trường hợp chính quyền Sierra Leone và ủy ban vật giá của họ, Đảng Cộng sản Trung Quốc chiếm thế độc quyền trong việc buôn bán các mặt hàng nông sản như gạo và ngũ cốc, và dùng sự độc quyền này để đánh sưu cao thuế nặng lên nông dân. Các nỗ lực công nghiệp hóa đất nước trở thành cú “Đại nhảy vọt” đầy tai tiếng. Sau đó, vào năm 1958 với sự ra đời của kế hoạch 5 năm, Mao chủ tịch tuyên bố sản lượng thép sẽ tăng gấp đôi dựa vào một nhúm lò luyện kim “sân sau” quy mô nhỏ. Ông mạnh miệng khẳng định trong vòng 15 năm, sản lượng thép của Trung Quốc sẽ ngang ngửa với Anh. Vấn đề duy nhất nằm ở chỗ không hề có một cách thức khả thi nào có thể đạt được những mục tiêu đó. Để theo kịp tiến độ, ngay cả kim loại phế liệu cũng bị đưa vào sử dụng, người dân buộc phải nấu chảy nồi, niêu và ngay cả công cụ làm đồng áng của mình như cuốc cày. Nông dân, đáng lẽ phải trông nom việc đồng áng thì lại phải ra sức luyện thép; cuốc cày bị nung chảy và ra đi cùng với chúng là khả năng nuôi sống bản thân và đất nước của người nông dân. Nạn đói khủng khiếp hoành hành tại các vùng nông thôn. Mặc dù các học giả còn nhiều tranh cãi về vai trò chính sách của Mao Trạch Đông và song song với chúng là tác hại của hạn hán, nhưng không một ai nghi ngờ phong trào Đại Nhảy vọt đóng vai trò chủ chốt trong việc gây ra cái chết của khoảng 20 đến 40 triệu người Trung Quốc. Không ai biết chính xác con số, bởi chính quyền Mao Trạch Động không thu thập số liệu ghi lại sự tàn ác của chế độ. Thu nhập trên đầu người giảm đi 1/4 so với trước.
Đại Nhảy vọt đã làm thay đổi suy nghĩ của Đặng Tiểu Bình - một thành viên thâm niên của Đảng Cộng sản, một vị tướng lừng danh trong suốt cuộc cách mạng và là người lãnh đạo phong trào “Chống cánh hữu”, một cuộc thanh trừng trá hình những “kẻ thù của công cuộc đổi mới”. Tại một hội nghị ở Quảng Châu thuộc miền nam Trung Quốc vào năm 1961, ông phát biểu rằng: “Mèo đen hay trắng không quan trọng, miễn là bắt được chuột”. Chính sách mang tính chất cộng sản hay không không phải là vấn đề; Trung Quốc cần những chính sách khuyến khích sản xuất để có thể nuôi sống người dân.
Tuy nhiên, chỉ ít lâu sau, Đặng Tiểu Bình đã phải lãnh hậu quả cho chính thực tế mà ông vừa nhận ra. Ngày 16/5/1966, Mao Trạch Đông tuyên bố rằng cuộc cải cách đang trong vòng nguy hiểm bởi có những thế lực tư sản đang ngấm ngầm phá hoại chế độ Cộng sản Trung Quốc với ý đồ tái tạo chủ nghĩa tư bản. Do đó, Mao Trạch Đông phát động cuộc Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản, còn được gọi là Cách mạng Văn hóa. Cuộc Cách mạng dựa trên 16 điều cốt yếu, trong đó điều thứ nhất như sau:
Mặc dù giai cấp tư sản đã bị đánh bại, chúng vẫn không ngừng tuyên truyền những lối suy nghĩ, văn hóa, phong tục cổ hủ và thói quen của tầng lớp bóc lột để làm suy đồi số đông, thu hút họ và cố gắng để trở lại. Giai cấp vô sản phải làm điều ngược lại: để thay đổi bộ mặt tinh thần của xã hội, họ phải đối đầu trực diện với mọi thách thức của giai cấp tư sản trên mặt trận ý thức hệ và đưa những tư tưởng, văn hóa, phong tục và thói quen mới áp dụng vào thực tiễn. Ở thời điểm hiện tại, mục tiêu của chúng ta là phải đấu tranh chống lại những kẻ đang nắm quyền nhưng lại mang tư tưởng tư sản, phải chỉ trích và phản đối những kẻ phản động đội lốt lãnh đạo giáo dục cũng như hệ tư tưởng của tư sản và mọi tầng lớp bóc lột khác, phải cải cách toàn bộ hệ thống giáo dục, văn học, nghệ thuật và bất kỳ thành phần nào của kiến trúc thượng tầng đang không phù hợp với cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội chủ nghĩa, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho sự thống nhất và phát triển của chủ nghĩa xã hội.
Giống như phong trào “Đại nhảy vọt”, cuộc Cách mạng Văn hóa cũng nhanh chóng gây thiệt hai nặng nề cho nền kinh tế và cho đời sống nhân dân. Các đơn vị hồng vệ binh được thành lập khắp cả nước mà thành viên là những thanh niên trẻ tuổi và năng nổ của Đảng Cộng sản với nhiệm vụ thanh trừng những kẻ đối nghịch. Vô số người bị giết, giam cầm hoặc đày ải. Trước những băn khoăn về mức độ bạo lực, Mao bình thản: “Gã Hít-le còn dã man hơn thế. Chẳng phải càng dã man càng tốt hơn sao? Càng nhiều người bị giết, cách mạng càng thành công”.
Bị gán tội danh thân tư sản mức độ hai, năm 1967, Đặng Tiểu Bình bị tống giam, đến năm 1969 thì bị đày tới tỉnh Giang Tô và cải tạo lao động trong một công xưởng nông thôn. Năm 1974, ông được thả về, và Mao Trạch Đông bị thủ tướng Chu Ân Lai thuyết phục nên đã bổ nhiệm Đặng Tiểu Bình làm phó thủ tướng thứ nhất của Trung Quốc. Năm 1975, ông giám sát việc soạn thảo ba văn kiện quan trọng của đảng mà nếu chúng được ban hành và thực thi thì Trung Quốc đã phát triển theo một đường lối mới. Những văn kiện này kêu gọi cải cách giáo dục đại học, một động cơ cần thiết cho công nghiệp và nông nghiệp, và yêu cầu khai trừ những thành viên cánh tả ra khỏi đảng. Ở thời điểm đó, sức khỏe của Mao đã suy sụp nghiêm trọng và quyền lực rơi vào tay một thành viên cánh tả khác, người mà Đặng Tiểu Bình có ý muốn tước bỏ quyền lực. Giang Thanh, vợ của Mao Trạch Đông, cùng với ba trong số những cộng tác thân cận của bà (thường được biết tới dưới tên gọi “Bè lũ bốn tên”) là những người ủng hộ nhiệt tình cho cuộc Cách mạng Văn hóa và sự áp bức mà nó đem lại. Chúng dự định sử dụng cùng phương cách đó để điều hành đất nước dưới chế độ độc tài. Ngày 5/4, một cuộc tuần hành tự phát để vinh danh cuộc đời của Chu Ân Lai tại quảng trường Thiên An Môn bỗng biến thành cuộc biểu tình chống chính phủ. Bè lũ bốn tên đổ trách nhiệm cho Đặng Tiểu Bình khiến ông, một lần nữa, bị tước mọi chức vụ và bị đẩy khỏi chính trường. Thay vì loại bỏ được cánh tả, chính cánh tả lại loại bỏ ông. Sau khi chu Ân Lai qua đời, Mao Trạch Đông chỉ định Hoa Quốc Phong, thay vì Đặng Tiểu Bình, lên làm quyền thủ tướng. Trong cuộc lật đổ quyền lực năm 1976, Hoa đã tích lũy được khá nhiều quyền lực cá nhân.
Đến tháng 9 thì xuất hiện một biến cố quan trọng: Mao Trạch Đông qua đời. Từ trước đến giờ, Đảng Cộng sản Trung Quốc luôn nằm dưới sự lãnh đạo của Mao. Phong trào Đại Nhảy vọt hay cuộc Cách mạng Văn hóa phần lớn đều bắt nguồn từ ý tưởng và những bước đi ban đầu của ông. Với sự ra đi của Mao Trạch Đông, một cuộc khủng hoảng quyền lực diễn ra, dẫn tới những xung đột giữa các thế lực có tầm nhìn và tư tưởng khác nhau về kết quả của sự thay đổi. Bè lũ bốn tên dự định tiếp tục với chính sách Cách mạng Văn hóa vì đó là cách thức duy nhất củng cố quyền lực của chúng và của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong khi đó, Hoa Quốc Phong mong muốn loại bỏ Cách mạng Văn hóa, tuy nhiên điều đó dường như không dễ dàng bởi chính nhờ nó, ông mới có được thân thế và quyền lực trong đảng. Thế nên Hoa ủng hộ một lối đi mới cân bằng hơn dù vẫn theo tầm nhìn của họ Mao, được gói gọn trong “hai phàm là” (“Two Whatevers”) như tờ Nhân Dân Nhật báo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc đăng tải năm 1977. Hoa lập luận: “Chúng ta quyết tâm duy trì mọi quyết định chính trị của Mao chủ tịch, và một lòng dấn bước trên con đường mà Chủ tịch đã vạch ra”.
Giống như Hoa Quốc Phong, Đặng Tiểu Bình cũng không muốn thủ tiêu chế độ cộng sản và thay thế nó bởi thị trường dung hợp. Quyền lực mà ông cũng như một nhóm người khác có được lúc bấy giờ đều do cuộc Cách mạng vô sản mang lại. Tuy nhiên ông và những người ủng hộ tin là hoàn toàn có thể đạt được sự tăng trưởng kinh tế đáng kể mà không ảnh hưởng tới quyền lực chính trị của mình: Họ sở hữu một khuôn mẫu phát triển kinh tế dưới thể chế chiếm đoạt chính trị hoàn toàn vô hại cho quyền lực của họ, bởi vì người dân Trung Hoa lúc bấy giờ đang chỉ có một khát khao cháy bỏng là cải thiện đời sống, và cũng bởi vì những kẻ đối nghịch đáng kể của đảng đều đã bị loại trừ hoàn toàn dưới thời Mao Trạch Đông với cuộc Cách mạng Văn hóa. Để đạt được điều này, họ phải loại bỏ không chỉ cuộc Cách mạng Văn hóa mà cả phần lớn thể chế do họ Mao để lại. Họ nhận ra rằng chỉ có những động thái đáng kể tiến đến thể chế kinh tế dung hợp mới có thể tạo ra tăng trưởng kinh tế cần thiết. Thế nên họ mong muốn cải cách kinh tế và củng cố vai trò của các động cơ và sức mạnh thị trường. Họ cũng có tham vọng mở rộng phạm vi của quyền sở hữu cá nhân và giảm bớt vai trò của Đảng Cộng sản trong xã hội cũng như trong quản lý chính quyền, loại bỏ những khái niệm như đấu tranh giai cấp. Bè phái của Đặng Tiểu Bình vô cùng niềm nở trước các nguồn đầu tư nước ngoài và giao thương quốc tế, hy vọng theo đuổi một chính sách tích cực hơn trong việc hội nhập kinh tế toàn cầu. Dù vậy, vẫn tồn tại những giới hạn: việc gây dựng một thể chế kinh tế dung hợp thật sự và giảm bớt tối đa sự kìm kẹp đối với nền kinh tế không phải là những con đường bằng phẳng.
Quyền lực của Hoa Quốc Phong và cách ông sử dụng nó để chống lại Bè lũ bốn tên là một bước ngoặt lớn cho Trung Quốc. Trong vòng một tháng sau cái chết của Mao Trạch Đông, Hoa đã khuấy động một cuộc đảo chính chống lại Bè lũ bốn tên, khiến chúng bị tống giam. Tháng 3/1977, Hoa phục chức cho Đặng Tiểu Bình. Dòng chảy lịch sử và những sự kiện quan trọng tiếp theo đã giúp Đặng qua mặt Hoa trên chiếu bài chính trị. Đặng Tiểu Bình khuyến khích công chúng phê phán Cách mạng Văn hóa và đưa những người từng bị đày ải trong thời kỳ đó lên nắm giữ những chức vụ quan trọng trong Đảng Cộng sản. Việc không thể lên án Cách mạng Văn hóa đã làm suy yếu quyền lực của Hoa Quốc Phong. So với Đặng, Hoa cũng chỉ là một kẻ đến sau, thiếu vây cánh và những mối quan hệ vững chắc mà Đặng đã gây dựng được trong suốt một thời gian dài. Trong một loạt bài phát biểu sau đó, Đặng đã ra sức chỉ trích chính sách của Hoa. Tháng 9/1978, Đặng công khai công kích “hai phàm là”, bày tỏ ý kiến về việc thay vì để những lời nói của Mao Trạch Đông quyết định chính sách thì cách tiếp cận đúng đắn nhất lúc bấy giờ là “tìm kiếm chân lý trong thực tế”.
Một cách khôn ngoan, Đặng đã đè nặng áp lực công chúng lên vai Hoa, thể hiện rõ nhất trong phong trào Bức tường Dân chủ năm 1978, khi người dân viết ra những bức xúc về đất nước lên một bức tường ở Bắc Kinh. Tháng 7/1978, Hồ Kiều Mộc, một trong những người thuộc phe ủng hộ Đặng Tiểu Bình, đã trình bày một vài nguyên tắc cơ bản trong việc cải cách kinh tế, trong đó có những lưu ý về việc cần phải được trao khả năng chủ động và quyền hành lớn hơn cho các xí nghiệp để họ có thể tự đưa ra những quyết định sản xuất. Giá cả phải phản ảnh cung- cầu thay vì do nhà nước bao cấp, và việc kiểm soát của quốc gia đối với nền kinh tế nói chung cần phải được tháo gỡ. Đây là những gợi ý hết sức cấp tiến nhưng hợp thời do ảnh hưởng của Đặng đang lên. Tháng 11 và 12/1978, Hội nghị Trung ương III của Đại hội đảng lần thứ XI đã mang đến sự đột phá. Bất chấp sự phản đối của Hoa Quốc Phong, mục tiêu của đảng được xác định không phải là đấu tranh giai cấp mà là hiện đại hóa nền kinh tế. Đại hội đã tuyên bố một vài thử nghiệm thăm dò như một “hệ thống khoán hộ” tại một số tỉnh; thực chất đây là nỗ lực đẩy lùi nông nghiệp tập thể và đưa khuyến khích kinh tế vào trong lĩnh vực nông nghiệp. Trong vòng một năm sau đó, Ủy ban Trung ương được xác nhận là tâm điểm của khái niệm “chân lý từ thực tế” và tuyên bố cuộc Cách mạng Văn hóa là một đại họa thật sự cho người dân Trung Quốc. Trong thời kỳ này, Đặng Tiểu Bình đã củng cố quyền lực thông qua việc bổ nhiệm những người ủng hộ mình vào các vị trí quan trọng trong đảng, quân đội và chính quyền. Tuy vẫn phải cẩn trọng trong từng bước đi chống lại những người ủng hộ Hoa Quốc Phong trong Ủy ban Trung ương, ông cũng đã tạo được một nền tảng quyền lực vững chắc. Đến năm 1980, Hoa buộc phải từ chức, và Triệu Tử Dương lên thay. Năm 1982, Hoa rời khỏi Ủy ban Trung ương. Chưa dừng lại ở đó, tại Đại hội đảng lần thứ XII năm 1982, và ngay sau đó tại Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc vào tháng 8/1985, Đặng Tiểu Bình gần như đã hoàn tất việc cải tổ bộ máy lãnh đạo đảng và Bộ Chính trị với những con người trẻ tuổi và có tư tưởng cấp tiến. Nếu so sánh giữa năm 1980 đến 1985, thì đã có 21 trong số 26 thành viên của Bộ Chính trị, 8 trong số 11 thành viên của Ban bí thư của Đảng Cộng sản, và 10 trong số 18 phó thủ tướng đã bị thay thế.
Lúc bấy giờ Đặng Tiểu Bình và các nhà cải cách đã hoàn tất cuộc cách mạng chính trị và nắm quyền kiểm soát toàn bộ đất nước. Tiếp theo đó, họ phát động một chuỗi thay đổi trong thể chế kinh tế, trước tiên là trong nông nghiệp. Cho đến năm 1983, hệ thống trách nhiệm hộ gia đình (khoán hộ), phỏng theo ý tưởng của Hồ Kiều Mộc với mong muốn đem lại những động cơ kinh tế cho nông dân, đã được áp dụng rộng rãi. Năm 1985 việc bắt buộc mua bán lương thực trong nước bị bãi bỏ, thay vào đó là một hệ thống bao gồm những khế ước mang tính tự nguyện hơn. Quyền kiểm soát của nhà nước lên giá thành các mặt hàng nông nghiệp ngày được nới lỏng. Ở thành thị, các tập đoàn nhà nước được giao thêm quyền tự trị, và 14 “thành phố mở” được xác lập, thu hút nhiều nguồn đầu tư nước ngoài.
Nền kinh tế ở nông thôn phát triển trước nhất. Việc áp dụng những chính sách khích lệ đã làm năng suất nông nghiệp tăng cao đáng kể. Năm 1984, sản lượng lương thực đã cao hơn 1/3 so với năm 1978, mặc dù số lượng người tham gia sản xuất ít hơn. Nhiều người đã làm việc trong các ngành công nghiệp nông thôn mới, gọi nôm na là các xí nghiệp hương trấn. Tuy nằm ngoài kế hoạch công nghiệp hóa đất nước, những điều này đều được phép phát triển sau năm 1979, thời điểm mà Trung Quốc chấp thuận cho các công ty mới được tham gia thị trường và cạnh tranh với các công ty nhà nước. Dần dần các chính sách khuyến khích kinh tế cũng được đưa vào lĩnh vực công nghiệp, mà cụ thể là len lỏi vào hoạt động của các công ty nhà nước, mặc dù tại thời điểm này chưa hề có một dấu hiệu nào của sự tư hữu hóa, điều mà phải đến giữa thập niên 1990 mới xuất hiện.
Việc loại bỏ những thể chế kinh tế có tính chiếm đoạt và thay bằng những thể chế có tính dung hợp hơn đã đem lại sự hồi sinh cho Trung Quốc. Những bước khởi đầu tích cực trên thị trường nông nghiệp và công nghiệp mà theo sau là nguồn đầu tư nước ngoài và kỹ thuật đã đưa Trung Quốc lên con đường phát triển kinh tế vượt bậc. Như chúng ta sẽ bàn luận kỹ hơn ở chương kế tiếp, đây vẫn là sự phát triển diễn ra trong khuôn khổ của thể chế chính trị chiếm đoạt, cho dù thể chế chính trị này không hà khắc như những thể chế dưới thời Cách mạng Văn hóa và các thể chế kinh tế đã phần nào trở nên khá dung hợp. Tuy nhiên những điều này không làm lu mờ tính cấp tiến trong những biến đổi của thể chế kinh tế. Ngay cả khi không thay đổi về thể chế chính trị thì Trung Quốc cũng đã phá vỡ khuôn mẫu. Tương tự như Botswana và miền Nam nước Mỹ, những biến đổi trọng yếu diễn ra ở thời điểm quyết định - trong trường hợp của Trung Quốc là cái chết của Mao Trạch Đông. Chúng diễn ra một cách ngẫu nhiên, thậm chí là rất ngẫu nhiên, vì không có gì là tất yếu trong việc Bè lũ bốn tên bị mất hết quyền lực; và nếu như Bè lũ bốn tên vẫn còn nắm quyền, Trung Quốc chắc chắn sẽ không bao giờ chứng kiến một sự tăng trưởng kinh tế vượt bậc trong vòng 30 năm trở lại đây. Trong khi đó, sự tàn phá khủng khiếp và những nỗi đau mà người dân phải chịu từ cuộc Đại Nhảy vọt và Cách mạng Văn hóa đã hình thành những đòi hỏi rất bức thiết về thay đổi và cải cách; chính những đòi hỏi này là yếu tố quan trọng giúp Đặng Tiểu Bình và đồng minh giành chiến thắng trên mặt trận chính trị.
CŨNG GIỐNG NHƯ cuộc Cách mạng Vinh quang ở Anh, cuộc Cách mạng Pháp và Minh Trị Duy Tân ở Nhật, Botswana, Trung Quốc và miền Nam nước Mỹ là những ví dụ điển hình cho việc lịch sử không phải là tiền định. Mặc cho sự tồn tại của vòng xoáy đi xuống, các thể chế chiếm đoạt vẫn sẽ được thay thế bằng những thể chế dung hợp. Chỉ có điều là việc đó không hề dễ dàng. Để một quốc gia có thể vươn tới thể chế dung hợp cần phải có một sự tổng hợp các yếu tố, mà cụ thể là thời điểm quyết định cùng với một liên minh rộng lớn những cá nhân đang khát khao sự thay đổi hoặc là các thể chế thích hợp hiện hành. Và tất nhiên, một điều quan trọng không kém là sự may mắn, bởi bánh xe lịch sử luôn quay đều một cách ngẫu nhiên.
Nguồn: Daron Acemoğlu, James A. Robinson (2012). Vì Sao Các Quốc Gia Thất Bại. Trần Thị Kim Chi dịch, Vũ Thành Tự Anh hiệu đính. NXB Trẻ. Nguyên tác: Why Nations Fail (2012)