[Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại - Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói] - Chương XIII: Tại sao các quốc gia ngày nay thất bại (Phần 8)

[Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại - Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói] - Chương XIII: Tại sao các quốc gia ngày nay thất bại (Phần 8)

TẠI SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI

Các quốc gia thất bại về mặt kinh tế là do các thể chế chiếm đoạt. Các thể chế này duy trì tình trạng nghèo khổ và cản trở những nước này bước vào lộ trình tăng trưởng kinh tế. Đây là thực tế ở các nước châu Phi ngày nay như Zimbabwe và Sierra Leone, ở các quốc gia Nam Mỹ như Colombia và Argentina; các nước châu Á như Bắc Triều Tiên và Uzbekistan, và Trung Đông như Ai Cập. Có những điểm khác biệt rõ rệt giữa các nước này. Một số nước ở vùng nhiệt đới, những nước khác ở vùng ôn đới. Một số nước từng là thuộc địa của Anh; những nước khác là thuộc địa của Nhật Bản, Tây Ban Nha và Nga. Họ có lịch sử, ngôn ngữ và văn hóa rất khác nhau. Điểm chung của họ là các thể chế chiếm đoạt. Trong tất cả các trường hợp này, nền tảng của các thể chế là giới quyền thế, những người thiết kế các thể chế kinh tế nhằm làm giàu cho bản thân họ và duy trì vĩnh viễn quyền lực của họ bằng tổn thất của đại đa số quần chúng trong xã hội. Lịch sử và cơ cấu xã hội khác nhau của các nước này dẫn đến sự khác biệt về bản chất của giới quyền thế và về chi tiết của các thể chế chiếm đoạt. Nhưng lý do khiến các thể chế chiếm đoạt này tồn tại dai dẳng luôn luôn liên quan đến vòng xoáy đi xuống, và tác động của các thể chế này là như nhau trên phương diện làm bần cùng hóa dân chúng, ngay cả khi cường độ của chúng có thể khác nhau.

Ví dụ như ở Zimbabwe, giới quyền thế bao gồm Robert Mugabe và lực lượng nòng cốt của đảng ZANU-PF, những người dẫn đầu cuộc chiến tranh chống thực dân vào thập niên 1970. Ở Bắc Triều Tiên, họ là giới thân hữu xung quanh Kim Jong-Il và Đảng Cộng sản. Ở Uzbekistan, đó là tổng thống Islam Karimov, gia đình và giới thân hữu từ thời Liên Xô đã được cách tân. Các nhóm này rõ ràng là khác nhau, và sự khác biệt này cùng với các chính thể và các nền kinh tế đa dạng mà họ cai quản, có nghĩa là hình thức cụ thể của các thể chế chiếm đoạt thì khác nhau. Lấy ví dụ, vì Bắc Triều Tiên được hình thành từ một cuộc cách mạng cộng sản, nên theo mô hình chính trị đơn đảng. Mặc dù Mugabe đã từng mời quân đội Bắc Triều Tiên đến Zimbabwe vào thập niên 1980 để tiêu diệt phe đối lập ở Matabeleland, mô hình thể chế chính trị chiếm đoạt này không thể áp dụng ở Zimbabwe. Thay vào đó, do con đường vươn đến quyền lực của ông là trong một cuộc chiến tranh chống thực dân, nên Mugabe phải che đậy sự cai trị của ông trong các cuộc bầu cử, mặc dù sau một thời gian ông đã xoay sở để tạo ra một nhà nước độc đảng phù hợp hiến pháp.

Trái lại, Colombia có một lịch sử bầu cử lâu đời, hình thành trong lịch sử như một phương pháp để chia sẻ quyền lực giữa đảng Tự do và đảng Bảo thủ sau khi giành độc lập từ Tây Ban Nha. Giới quyền thế không chỉ khác nhau về bản chất mà cả về số lượng. Ở Uzbekistan, Karimov có thể đánh cắp tàn dư của nhà nước Xô viết, mang lại cho ông một công cụ vững chắc để đàn áp và giết hại các phe phái khác. Ở Colombia, tình trạng thiếu thẩm quyền của nhà nước trung ương ở nhiều nơi, theo lẽ tự nhiên, đã dẫn đến nhiều nhóm quyền thế manh mún hơn - nhiều đến mức đôi khi họ giết hại lẫn nhau. Tuy nhiên, bất chấp các giới quyền thế và thể chế chính trị đa dạng này, các thể chế này thường xoay sở để gia cố và tái tạo quyền lực của giới quyền thế tạo ra chúng. Nhưng đôi khi, tình trạng xâu xé nội bộ mà chúng gây ra có thể dẫn đến sự sụp đổ nhà nước như ở Sierra Leone.

Lịch sử và cơ cấu khác nhau có nghĩa là nhân thân của giới quyền thế và chi tiết của các thể chế chính trị chiếm đoạt cũng khác nhau; và tương tự như vậy, chi tiết của các thể chế kinh tế chiếm đoạt mà giới quyền thế thiết lập cũng khác nhau. Ở Bắc Triều Tiên, công cụ chiếm đoạt cũng như ở Liên bang Xô viết: bãi bỏ sở hữu tư nhân, các nông trang tập thể và công nghiệp sở hữu nhà nước.

Ở Ai Cập, tình hình cũng khá giống chế độ quân sự do đại tá Nasser lập ra sau năm 1952. Nasser sát cánh với Liên Xô dưới thời Chiến tranh lạnh, sung công các dự án đầu tư nước ngoài như kênh đào Suez thuộc sở hữu của Anh, và nhà nước tiếp quản sở hữu phần lớn nền kinh tế. Tuy nhiên, tình hình ở Ai Cập vào thập niên 1950 và 1960 rất khác so với Bắc Triều Tiên vào thập niên 1940. Bắc Triều Tiên dễ dàng thiết lập một nền kinh tế kiểu Liên Xô triệt để hơn vì họ có thể sung công tài sản của người Nhật trước đây và xây dựng theo mô hình kinh tế của cuộc Cách mạng Trung Quốc.

Trái lại, Cách mạng Ai Cập là cuộc đảo chính của một nhóm sĩ quan quân đội. Khi Ai Cập chuyển hướng trong thời Chiến tranh lạnh và trở nên ủng hộ phương Tây, quân đội Ai Cập cũng thấy việc chuyển từ cơ chế mệnh lệnh tập trung sang chủ nghĩa tư bản thân hữu như một phương pháp chiếm đoạt tỏ ra tương đối dễ dàng và thiết thực hơn. Thậm chí như vậy, kết quả kinh tế của Ai Cập vẫn tốt hơn so với Bắc Triều Tiên là nhờ vào bản chất chiếm đoạt có giới hạn hơn của các thể chế Ai Cập. Bởi lẽ, do không có sự kiểm soát ngột ngạt như ở Bắc Triều Tiên nên chế độ Ai Cập phải xoa dịu dân chúng theo một phương thức mà chế độ Bắc Triều Tiên không có. Ngoài ra, ngay cả chủ nghĩa tư bản thân hữu cũng tạo ra ít nhiều động cơ khuyến khích đầu tư, chí ít trong số những người được chế độ ưu ái, mà ở Bắc Triều Tiên hoàn toàn không có.

Mặc dù tất cả các chi tiết này đều quan trọng và thú vị, nhưng bài học quan trọng nhất là về bức tranh tổng thể: trong tất cả các trường hợp này, các thể chế chính trị chiếm đoạt đã tạo ra các thể chế kinh tế chiếm đoạt, chuyển giao của cải và quyền lực sang giới quyền thế.

Cường độ chiếm đoạt ở các nước này rõ ràng là khác nhau và gây ra những hệ quả quan trọng đối với sự thịnh vượng. Ví dụ như ở Argentina, hiến pháp và bầu cử dân chủ không có tác dụng thúc đẩy chủ nghĩa đa nguyên, nhưng vẫn vận hành tốt hơn so với ở Colombia. Ít ra nhà nước cũng có thể xác lập độc quyền vũ lực ở Argentina. Phần nào vì thế mà thu nhập trên đầu người ở Argentina cao gấp đôi so với Colombia. Các thể chế chính trị ở cả hai nước này đều có tác dụng khống chế giới quyền thế nhiều hơn so với ở Zimbabwe và Sierra Leone, và vì thế, Zimbabwe và Sierra Leone đều nghèo hơn nhiều so với Argentina và Colombia.

Vòng xoáy đi xuống cũng có nghĩa là ngay cả khi các thể chế chiếm đoạt dẫn đến sự sụp đổ nhà nước như ở Sierra Leone và Zimbabwe, điều này cũng không giúp kết liễu sự cai trị của các thể chế này. Chúng ta đã thấy rằng nội chiến và cách mạng, tuy có thể xảy ra vào những thời điểm quyết định, nhưng không nhất thiết dẫn đến thay đổi thể chế. Các biến cố ở Sierra Leone từ khi nội chiến kết thúc vào năm 2002 minh họa sống động cho khả năng này.

Năm 2007, trong một cuộc bầu cử dân chủ, đảng cũ của Siaka Stevens, đảng APC, quay lại nắm quyền. Mặc dù Ernest Bai Koroma, người đắc cử tổng thống, không liên kết với chính phủ APC cũ, nhưng nhiều người trong nội các của ông thì có quan hệ. Hai trong số những người con trai của Stevens, Bockarie và Jengo, thậm chí còn làm đại sứ ở Hoa Kỳ và Đức. Theo một nghĩa nào đó, đây là một phiên bản thăng trầm hơn so với những gì ta đã thấy ở Colombia. Tình trạng không có thẩm quyền nhà nước tồn tại dai dẳng qua nhiều năm ở nhiều nơi trên cả nước là vì một bộ phận giới quyền thế có lợi khi duy trì tình trạng đó, nhưng các thể chế nhà nước nòng cốt cũng đủ mạnh để ngăn tình trạng mất trật tự này không trở thành rối loạn hoàn toàn. Ở Sierra Leone, một phần do bản chất chiếm đoạt hơn của các thể chế kinh tế và một phần do lịch sử thể chế chính trị mang tính chiếm đoạt cao độ của đất nước, cho nên xã hội chẳng những khốn khổ về mặt kinh tế mà còn bị bít hai đầu, giữa một bên là tình trạng mất trật tự hoàn toàn và bên kia là một kiểu trật tự méo mó nào đó. Tuy nhiên, ảnh hưởng dài hạn vẫn như nhau: nhà nước gần như không có, và các thể chế có tính chiếm đoạt.

Trong tất cả các trường hợp này, đều có một lịch sử thể chế chiếm đoạt lâu dài ít nhất từ thế kỷ 19. Mỗi nước đều rơi vào vòng xoáy đi xuống. Ở Colombia và Argentina, chúng bắt nguồn từ các thể chế cai trị của thực dân Tây Ban Nha (chương 1). Các thể chế của Zimbabwe và Sierra Leone có nguồn gốc từ chế độ thuộc địa Anh được thiết lập vào cuối thế kỷ 19. Ở Sierra Leone, không có người định cư da trắng, các chế độ này được xây dựng trên cơ cấu chiếm đoạt quyền lực chính trị tiền thuộc địa và ngày càng tăng cường. Bản thân các cơ cấu này là kết quả của một vòng xoáy đi xuống lâu dài, với đặc điểm là thiếu sự tập trung hóa chính trị và ảnh hưởng tàn khốc của hoạt động mua bán nô lệ. Ở Zimbabwe, một hình thức mới của các thể chế chiếm đoạt đã được xây dựng, vì Công ty Nam Phi thuộc Anh đã tạo ra một nền kinh tế đối ngẫu. Uzbekistan có thể tiếp quản các thể chế chiếm đoạt của Liên Xô, và cũng như Ai Cập, đã điều chỉnh chúng thành chủ nghĩa tư bản thân hữu. Bản thân các thể chế chiếm đoạt của Liên Xô trên nhiều phương diện là sự kế tục các thể chế thời kỳ Nga hoàng, một lần nữa theo một mô thức dựa vào quy luật sắt của thể chế chính trị đầu sỏ. Vì các vòng xoáy đi xuống này tồn tại ở những vùng khác nhau trên thế giới trong 250 năm qua, nên tình trạng cách biệt giàu nghèo đã nổi lên và tồn tại dai dẳng.

Giải pháp cho sự thất bại về kinh tế và chính trị của các quốc gia ngày nay là chuyển đổi các thể chế chiếm đoạt thành các thể chế dung hợp. Vòng xoáy đi xuống có nghĩa là điều này sẽ không dễ dàng, nhưng cũng không phải là bất khả thi, và quy luật sắt của thể chế chính trị đầu sỏ không phải là không thể tránh khỏi. Hoặc là các yếu tố dung hợp sẵn có trong thể chế, hoặc là sự hiện diện của một liên minh rộng lớn dẫn đến đấu tranh chống lại chế độ hiện hữu, hoặc chỉ là bản chất tình cờ của lịch sử, sẽ giúp phá vỡ vòng xoáy đi xuống. Cũng như cuộc nội chiến ở Sierra Leone, cuộc Cách mạng Vinh quang năm 1688 cũng là một cuộc chiến vì quyền lực. Nhưng nó có bản chất rất khác so với cuộc nội chiến ở Sierra Leone. Ta có thể cho rằng, một vài người trong Quốc hội Anh đấu tranh để hạ bệ vua James II sau cuộc Cách mạng Vinh quang đã hình dung chính họ trong vai trò của một nhà cai trị chuyên chế mới, như Oliver Cromwell sau cuộc nội chiến Anh. Nhưng vì Quốc hội có sức mạnh và là một liên minh rộng lớn bao gồm nhiều lợi ích kinh tế khác nhau và các quan điểm khác nhau, cho nên quy luật sắt của thể chế chính trị đầu sỏ ít có cơ may phát huy tác dụng vào năm 1688. Và điều này được trợ lực bằng thực tế là sự may mắn đã thuộc về Quốc hội chống lại vua James II. Trong chương tiếp theo, chúng ta sẽ xem xét các ví dụ khác về những nước đã xoay sở để phá vỡ khuôn khổ và chuyển hóa thể chế trở nên tốt hơn, ngay cả sau một lịch sử thể chế chiếm đoạt lâu dài.

Nguồn: Daron Acemoğlu, James A. Robinson (2012). Vì Sao Các Quốc Gia Thất Bại. Trần Thị Kim Chi dịch, Vũ Thành Tự Anh hiệu đính. NXB Trẻ. Nguyên tác: Why Nations Fail (2012)

Dịch giả:
Trần Thị Kim Chi
Hiệu đính:
Vũ Thành Tự Anh