![[Kinh tế học cấm đoán] Chương 3: Lý thuyết về cấm đoán (Phần 1)](http://thitruongtudo.vn/upload/01_bai_viet/k25003.16_(1).png)
[Kinh tế học cấm đoán] Chương 3: Lý thuyết về cấm đoán (Phần 1)
Nhưng các tài liệu lịch sử, sinh học và thống kê mang đến cho chúng ta rất ít những sự kiện có thể kiểm chứng được hoặc những dữ kiện được xây dựng đúng cách. Những kết luận được rút ra sau khi đọc những tài liệu này khác nhau chẳng khác gì các sự kiện được viện dẫn và thường được suy ra mà chẳng cần một chút logic tối thiểu nào.
ROBERT J. MICHAELS
“Thị trường heroin trước và sau khi hợp pháp hóa”
("The Market for Heroin before and after Legalization")
Mặc dù đã có những cuộc tranh luận nóng bỏng, nhận thức lí thuyết về cấm đoán văn chưa tiến triển được bao nhiêu. Các nhà kinh tế học và các nhà khoa học xã hội khác đã dành nhiều công sức hơn cho các công trình nghiên cứu thực nghiệm và phân tích chi phí-lợi ích hơn là cho lí thuyết. Kinh nghiệm lịch sử đã bổ sung cho sự hiểu biết của chúng ta, nhưng cái giá phải là hàng thập kỷ thi hành những chính sách công sai lầm.
Những biện pháp cấm đoán là những đạo luật cấm sản xuất, trao đổi, và tiêu thụ một sản phẩm nào đó. Muốn tạo ra một nền tảng vững chắc cho nhận thức để từ đó có thể nghiên cứu các sự kiện và những giai đoạn lịch sử đặc biệt, tạo cơ sở cho việc xây dựng chính sách công và luật pháp – tồn tại lâu dài chứ không phải sớm nở tối tàn – thì lí thuyết về cấm đoán phải là mỗi tâm chung của tất cả mọi người. Lí thuyết này không nên đề cập đến một sản phẩm cụ thể, dù là “gây nghiện” hay không hoặc một giai đoạn đặc biệt, tương tự như lí thuyết về kiểm soát giá cả hay lạm phát vẫn làm.
Trong Chương 2, chúng ta đã phát hiện ra rằng tìm kiếm lợi nhuận độc quyền là thành tố quan trọng nhất trong việc thông qua những biện pháp cấm đoán. Nhằm tạo ra luận cử cho việc cấm đoán, người ta sẽ coi những quyền lợi này là trùng hợp với lợi ích của xã hội.
Những luận cứ ủng hộ cấm đoán gồm:
1. Chi tiêu cho những món hàng cấm sẽ được sử dụng hợp lý hơn vào bảo hiểm nhân thọ, lương thực thực phẩm nhà ở và tiết kiệm.
2. Người lao động tỉnh táo sẽ tăng năng suất, đi làm đầy đủ hơn và ít tai nạn lao động hơn.
3. Sử dụng những món hàng cấm có thể gây hại cho sức khỏe. Ốm đau làm giảm thời gian lao động, gia tăng nhu cầu y tế, và làm gia tăng chi tiêu của chính phủ trong lĩnh vực chăm sóc y tế.
4. Nghiện ngập, hành vi và thói quen mang tính cường bức là những vấn đề vượt ra ngoài khả năng kiểm so của cá nhân và vì vậy mà phải đặt dưới sự kiểm soát của nhà nước.
5. Sử dụng một số sản phẩm là nguyên nhân của nhữn hành vi bạo lực và tội phạm của một số cá nhân, những người mà nếu không có những sản phẩm đó thì sẽ không có những hành vi như vậy. Cấm đoán sẽ giúp làm giảm tội phạm, tham nhũng và những tệ nạn xã hội khác.
6. Sử dụng một số sản phẩm sẽ ảnh hưởng đến giáo dục, đời sống gia đình, và việc tham gia vào tiến trình dân chủ. Do đó, cấm đoán là một biện pháp bảo vệ lối sống Mĩ.
7. Một số sản phẩm có tính lây nhiễm và việc sử dụng sẽ nhanh chóng lây lan sang tất cả các nhóm kinh tế xã hội, có thể làm cho nhiều người trong xã hội trở nên nghiện ngập.
8. Đây là những loại thuốc không cần thiết, sử dụng chúng sẽ chẳng giúp gì cho hoạt động của xã hội.
9. Cấm đoán là chính sách tốt nhất nhằm giải quyết những vấn đề vừa nêu. Đây là chính sách hiệu quả, và lợi ích của việc thực thi chính sách vượt xa chi phí bỏ ra.
10. Nếu có chính sách đúng đắn với hình phạt phù hợp và nguồn lực thích hợp thì người sử dụng tiềm năng sẽ không dám thử, còn người đang sử dụng thì sẽ bị cách li hoặc bị buộc phải từ bỏ thói quen của họ. Như vậy là, về lâu dài, cấm đoán hầu như có thể xóa bỏ được sản phẩm khỏi thương trường.
Tám luận cứ đầu tiên cung cấp cho người ta lí do chính đáng để ban hành lệnh cấm đoán. Nhiều mục tiêu bên trên đáng được hoan nghênh, nhưng phần lớn những mục tiêu đó sẽ bị nhiều người phản đối. Điểm 9 và 10 khẳng định ưu thế của những biện pháp cấm đoán so với những chính sách khác và thiết lập những điều kiện cần thiết cho thắng lợi của những biện pháp này. Phần phân tích sau đây của tôi là nhằm giải quyết những điểm này. Ludwig von Mises mô tả cách tiếp cận theo lối kinh tế học
trong quá trình phân tích chính sách công như sau:
Chúng ta đều đề cập theo cách của riêng mình với những hành vi can thiệp với mục đích là buộc các doanh nhân và nhà tư bản phải sử dụng những yếu tố sản xuất theo cách khác với cơ chế thị trường. Trong khi làm như thế, chúng ta không đặt câu hỏi liệu sự can thiệp như vậy là tốt hay xấu, xét từ bất kì định kiến nào. Chúng ta chỉ đặt câu hỏi là liệu nó có đạt được mục tiêu mà những người ủng hộ và sử dụng nó nhắm đến hay không mà thôi. ([1949] 1977, 734)
Trước khi phân tích, xin nói rằng đây không chỉ là các nhà kinh tế học tranh luận với những mệnh lệnh của chính phủ mà các nhà kinh tế học còn tranh luận với thị hiếu và sở thích của người tiêu dùng. Hơn thế nữa, các nhà kinh tế học còn phải phân tích chính sách và xác định khả năng đạt được những mục tiêu đặt ra.
Nguồn: Mark Thorntom (2016). Kinh tế học cấm đoán. Phạm Nguyên Trường dịch. Nguyên tác: The Economics of Prohibition