Vai trò của đầu cơ trong nền kinh tế - Phần 1
Giới đầu cơ trên các thị trường tài chính toàn cầu đã trở thành đối tượng để người dân trút giận trong những tháng cuối năm 2011. Theo tâm thế chung của xã hội, những kẻ đầu cơ này là thủ phạm gây ra bất ổn toàn cầu, nhưng thay vì bị trừng phạt, họ lại được các chính phủ o bế và cứu trợ. Sự thật có phải như vậy không?
(Đây là bài viết tôi định đăng trên SGTT số Tết nhưng cuối cùng BBT quyết định không đăng vì không phù hợp với xu hướng hiện nay).
Kinh tế suy thoái toàn cầu năm 2008-2009 khiến tỷ lệ thất nghiệp ở các nước phát triển tăng cao, trong khi giới tài chính-ngân hàng vẫn sống khỏe, đặc biệt là sau khi được các chính phủ bơm hàng ngàn tỷ USD để cứu trợ trong giai đoạn 2009-2010. Giới đầu cơ trên các thị trường tài chính toàn cầu đã trở thành đối tượng để người dân trút giận trong những tháng cuối 2011. Theo tâm thế chung của xã hội, những kẻ đầu cơ này là thủ phạm gây ra bất ổn toàn cầu, nhưng thay vì bị trừng phạt, họ lại được các chính phủ o bế và cứu trợ. Sự thật có phải như vậy không?
Yếu tố đầu cơ trong hành động của con người
Để hành động, tức để đạt được một mục đích nào đó, con người phải dựa trên một lượng thông tin nhất định về khả năng đạt được mục đích đó. Dựa trên tính chất của loại thông tin mà con người có thể có được, ta có thể phân loại hành động thành ba loại lý tưởng: hành động có tính khoa học, hành động có tính cờ bạc, và hành động có tính đầu cơ.
Hành động có tính thuần túy khoa học là loại hành động dựa trên kinh nghiệm hoặc thí nghiệm đã biết, theo đó người hành động biết trước rằng nếu anh ta làm đúng theo công thức sẵn có anh ta sẽ đạt được kết quả mong muốn. Dơ camera lên chụp là một ví dụ. Ta thực hiện thao tác đó bởi vì ta đã có kinh nghiệm về khả năng ghi lại hình cảnh của camera.
Hành động có tính thuần túy đánh bạc là hành động mà ta không chắc liệu có thể có được kết quả mong muốn ngay trước khi bắt đầu, nhưng ta lại biết rằng ta có cơ may có được kết quả mong muốn. Ở đây cơ may để đạt được kết quả không phụ thuộc vào kinh nghiệm của anh ta. Đánh đề hay chơi xổ số là một ví dụ của hành động thuần túy đánh bạc.
Hành động có tính đầu cơ là hành động chỉ dựa một phần vào kinh nghiệm đã biết. Do còn nhiều yếu tố liên quan đến hành động mà ta không biết, hoặc không thể biết, nên khả năng thành công của hành động là không chắc chắn. Tuy nhiên, bởi hành động có tính đầu cơ dựa một phần vào kiến thức đã biết, nên ta không đơn thuần chỉ có cơ hội thành công tương tự như đánh bạc, mà còn có khả năng nâng cao được cơ hội thành công nếu ta chịu khó học hỏi.
Trên thực tế, hầu hết các hành động của chúng ta đều là hành động có tính đầu cơ vì ta không thể biết được mọi thứ cũng như kiểm soát được toàn bộ những thứ diễn ra xung quanh. Luôn có những điều ta không thể lường được trước khi hành động. Ta hành động đơn giản bởi vì bản thân ta đã thành công hoặc biết một ai đó đã thành công trong một hành động tương tự trước đó.
Khi yếu tố đầu cơ được chuyên môn hóa
Việc hầu hết các hành động của chúng ta đều có tính chất đầu cơ hàm ý rằng chúng ít nhiều đều chứa đựng yếu tố rủi ro. Những người tìm cách kinh doanh theo hướng làm giảm các tổn thất liên quan đến các rủi ro mà chúng ta có thể gặp phải khi hành động được gọi là nhà đầu cơ chuyên nghiệp.
Theo nghĩa này, toàn bộ giới doanh nhân có thể được xem như là những nhà đầu cơ chuyên nghiệp. Người kinh doanh bảo hiểm đảm bảo, chẳng hạn với một mức phí bảo hiểm về tai nạn giao thông nhất định nào đó, sẽ hoàn trả một phần các chi phí liên quan nếu như tai nạn xảy ra. Người chủ doanh nghiệp đảm bảo hàng tháng trả cho người lao động một khoản lương nhất định để đổi lấy việc thực hiện một số loại hành động nào đó và gánh chịu toàn bộ rủi ro liên quan đến những hành động này của người lao động. Người kinh doanh sản phẩm tài chính phái sinh đảm bảo cung cấp cho các doanh nghiệp các yếu tố đầu vào (hàng hóa, lãi suất, cổ phiếu, tỷ giá v.v.) với một mức giá cố định và gánh chịu toàn bộ rủi ro liên quan đến sự thay đổi giá cả.
Trong tất cả các trường hợp trên, các nhà đầu cơ chuyên nghiệp đều phải tìm cách giúp khách hàng của mình kiểm soát rủi ro đồng thời tìm cách phân tán rủi ro sang cho nhiều người khác nhằm đảm bảo rằng hoạt động kinh doanh của mình có lợi nhuận. Chính vì nhu cầu phải phân tán rủi ro sang cho nhiều người khác nhau dẫn đến xuất hiện tầng tầng lớp lớp các nhà đầu cơ chuyên nghiệp khi nền kinh tế thị trường toàn cầu bùng nổ. Ngày nay, khi nhắc đến giới đầu cơ, người ta chỉ còn nói đến giới kinh doanh các sản phẩm phái sinh. Theo Wikipedia, tổng giá trị của các hợp đồng phái sinh toàn cầu vào giữa năm 2007 ước khoảng 510 nghìn tỷ USD, lớn gấp hơn 4 lần tổng giá trị tài sản thực trên toàn thế giới.
Vì đâu hoạt động đầu cơ lại trở thành “tội đồ” của khủng hoảng kinh tế 2008-2009?
Như vậy, bản chất của các hoạt động đầu cơ là nhằm phát hiện và kiểm soát rủi ro, và giảm thiểu các thiệt hại khi rủi ro xảy ra. Quả thực, sự phát triển chóng mắt của lĩnh vực này trong khoảng 30 năm trở lại đây đã làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt của thế giới. Do rủi ro ngày càng được kiểm soát tốt hơn nên vốn, công nghệ, lao động và hàng hóa có điều kiện dịch chuyển ngày càng nhanh trên phạm vi toàn cầu, đến những nơi thực sự cần, đến những lĩnh vực thực sự có tiềm năng phát triển.
Tuy nhiên, cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008-2009 đã khiến cho dân chúng thế giới có một cái nhìn thiếu thiện cảm về hoạt động đầu cơ. Các hoạt động đầu cơ bị bị quy là do lòng tham của giới tài phiệt, là thủ phạm gây ra khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Những lập luận chống đối giới này cho rằng thay vì góp phần kiểm soát rủi ro, giới đầu cơ đã tạo ra một môi trường an toàn giả tạo để khuyến khích các cá nhân và doanh nghiệp chi tiêu và đầu tư nhằm gặt hái những khoản lợi nhuận kếch xù. Khi rủi ro xảy ra, thay vì phải gánh chịu rủi ro, giới đầu cơ lại được các chính phủ trên toàn cầu cứu vớt bằng tiền đóng thuế của dân chúng. Các chính phủ phải cứu vớt giới đầu cơ là vì sự sụp đổ của giới này sẽ gây ra những đổ vỡ cho nền kinh tế thực còn lớn hơn nhiều khoản được cứu trợ.
Vậy có phải nguyên nhân đích thực của khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009 là do lòng tham của giới đầu cơ? Sự thật không phải vậy. Giới đầu cơ, như bản chất nguyên thủy của nó, tạo ra môi trường an toàn hơn cho các khách hàng của mình hoạt động. Nhưng những tính toán về rủi ro của giới đầu cơ toàn cầu lại đánh giá quá thấp các rủi ro mà các chính phủ có thể gây ra. Chính sự tin tưởng của giới đầu cơ về khả năng của các ngân hàng trung ương trong việc duy trì các mức lãi suất thấp, vào tỷ giá ổn định, và vào khả năng kiểm soát nợ công v.v. đã khiến họ hạ thấp các tiêu chuẩn an toàn về vốn, đẩy dân chúng vào các hành động tiêu dùng và đầu tư quá mức, dẫn đến khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Làm cách nào để đưa yếu tố đầu cơ về đúng vị trí của nó?
Trong khi các rủi ro của các cá nhân và doanh nghiệp là các rủi ro phi tập trung thì rủi ro chính thể (regime uncertainty) lại là rủi ro tập trung. Với rủi ro phi tập trung, các nhà đầu cơ đều có thể dùng quy luật số lớn để tính toán và phân tán rủi ro. Nhưng với rủi ro chính thể, các nhà đầu cơ luôn ở thế bị động và không có cách nào tính toán được. Họ hoặc tin tưởng thái quá hoặc bi quan thái quá. Với trường hợp đầu, họ sẽ hạ thấp các chi phí bảo hiểm rủi ro, và do vậy, vô tình đẩy dân chúng vào các hoạt động rủi ro. Với trường hợp sau, họ nâng cao chi phí bảo hiểm rủi ro, và do vậy, vô tình ngăn cản các hoạt động kinh doanh của người dân, dẫn đến kinh tế trì trệ.
Như vậy, để giúp cho giới đầu cơ hoạt động đúng chức năng của mình - phát hiện và kiểm soát rủi ro - vấn đề không phải là đặt ra các rào cản hoạt động của giới này mà là các chính phủ phải tìm cách loại bỏ các rủi ro chính thể. Hay nói cách khác, các chính phủ nên tập trung vào cân bằng chi tiêu ngân sách, xây dựng các luật lệ ổn định, và tạo ra một đồng tiền “tốt” không bị mất giá trị. Bấy nhiêu có lẽ là đủ để tạo ra một nền kinh tế toàn cầu ngày càng ổn định và thịnh vượng.
Nguồn: Đinh Tuấn Minh, Vai trò của đầu cơ trong nền kinh tế, Thị trường & Tự do, 15/12/2014