[Chủ nghĩa tự do truyền thống] - Chủ nghĩa tự do và các chính đảng (Phần 2)

[Chủ nghĩa tự do truyền thống] - Chủ nghĩa tự do và các chính đảng (Phần 2)

Đây là phần trích đăng từ chương "LIBERALISM AND THE POLITICAL PARTIES" trong cuốn sách "Chủ nghĩa tự do truyền thống", tác phẩm kinh điển, có tính chất đặt nền móng cho chủ nghĩa tự do cá nhân của Ludwig von Mises, xuất bản lần đầu năm 1929. Nhan đề bài viết do TTTD Academy đặt.

- Thị trường Tự do Academy

2. Đảng phái chính trị

Đáng buồn nhất là có người đã hiểu sai ý nghĩa và bản chất của chủ nghĩa tự do, cho rằng nếu áp dụng những biện pháp mà hiện nay các đảng phái khác đang sử dụng thì có thể bảo đảm chiến thắng cho các tư tưởng tự do.

Trong xã hội phân chia theo đẳng cấp, tức là xã hội không phải của những công dân bình đẳng mà được chia thành thang bậc với quyền lợi và trách nhiệm khác nhau thì không thể có các đảng phái chính trị theo nghĩa hiện đại của từ này. Khi đặc quyền đặc lợi và quyền bất khả xâm phạm của những giai tầng khác nhau chưa bị thách thức thì giữa các giai tầng vẫn giữ được hòa bình. Nhưng khi đặc quyền đặc lợi của một số giai tầng và địa vị xã hội của họ bị thách thức thì tranh chấp lại nổ ra và chỉ có thể tránh được nội chiến nếu một bên nào công nhận rằng họ ở thế yếu và đầu hàng mà không dùng đến vũ lực. Ngay từ khởi thủy, địa vị của mỗi người trong các giai tầng khác nhau quyết định quan điểm của người đó trong tất cả những cuộc xung đột như thế. Chắc chắn có những người đầu hàng, đấy là những người hi vọng sẽ được lợi nếu nhảy sang phía kẻ thù và chống lại chính giai tầng của mình, và những người như thế bị coi là phản bội. Nhưng ngoại trừ những trường hợp hãn hữu, người ta không phải đắn đo trước câu hỏi phải đứng về phe nào. Họ sẽ đứng bên cạnh những thành viên của giai tầng mình và chia sẻ số phận với họ. Giai tầng hay các giai tầng không hài lòng với địa vị của mình đứng lên chống lại trật tự hiện hành và phải đạt được yêu sách của mình trước sự kháng cự của những giai tầng khác. Kết quả cuối cùng của cuộc xung đột - không nói trường hợp những người bạo loạn thất bại và mọi việc vẫn giữ nguyên như cũ - trật tự cũ được thay bằng một trật tự mới, trong đó quyền lực của mỗi giai tầng đều được phân bố lại khác trước.

Cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa tự do là yêu cầu bãi bỏ tất cả các đặc quyền đặc lợi. Xã hội đẳng cấp phải mở đường cho chế độ mới, trong đó chỉ có những người công dân có quyền bình đẳng như nhau mà thôi. Không chỉ đặc quyền đặc lợi cụ thể mà ngay cả sự tồn tại của mọi ưu quyền nói chung đã bị tấn công. Chủ nghĩa tự do đã gỡ bỏ tất cả các rào cản về mặt xã hội và giải phóng con người khỏi tất cả những hạn chế mà chế độ cũ áp đặt lên họ. Chính trong xã hội tư bản, tức là xã hội nằm dưới quyền cai trị của chính phủ đặt nền tảng trên những nguyên lí của chủ nghĩa tự do, lần đầu tiên từng cá nhân được quyền tham gia trực tiếp vào đời sống chính trị và lần đầu tiên mỗi người đều có nhiệm vụ đưa ra quyết định cá nhân về mục tiêu và lí tưởng chính trị. Trong những xã hội đẳng cấp trước đây, xung đột chính trị chỉ có thể xảy ra giữa những giai tầng khác nhau, còn từng giai tầng thì lại hình thành một mặt trận vững chắc nhằm chống lại các giai tầng khác; còn khi không có những vụ xung đột giữa các giai tầng thì trong lòng những giai tầng được quyền tham gia vào đời sống chính trị lại có thể xảy ra xung đột giữa các phe nhóm nhằm tranh giành ảnh hưởng, quyền lực và địa vị lãnh đạo. Chỉ có thể chế chính trị trong đó mọi người dân đều có quyền bình đẳng - phù hợp với lí tưởng của chủ nghĩa tự do, một lí tưởng chưa được thực hiện một cách trọn vẹn ở bất kì đâu - mới có thể có những đảng phái chính trị, tức là tổ chức của những người muốn đưa những ý tưởng về lập pháp và hành pháp của mình vào đời sống. Đó là vì có những ý kiến khác nhau về con đường đưa đến mục tiêu của chủ nghĩa tự do nhằm bảo đảm sự hợp tác xã hội một cách hòa bình, và chính sự khác biệt về ý kiến như thế nhất định dẫn tới tranh cãi tựa như là bất đồng về tư tưởng.

Như vậy nghĩa là, trong xã hội tự do có thể có cả các đảng xã hội chủ nghĩa; và cũng không loại trừ ngay cả những đảng phái tìm cách giành địa vị đặc biệt cho những nhóm người cụ thể nào đó. Nhưng tất cả các đảng phái này vẫn phải thừa nhận chủ nghĩa tự do (ít nhất là tạm thời, cho đến khi họ giành được chiến thắng) cho tới chừng nào họ vẫn chỉ sử dụng trí tuệ, tức là thứ vũ khí được chủ nghĩa tự do coi là hợp pháp duy nhất, trong những cuộc đấu tranh như thế. Tất cả các đảng phái đều phải công nhận nguyên tắc này, ngay cả khi đảng viên của những đảng phái bài chủ nghĩa tự do (những người xã hội chủ nghĩa và những người ủng hộ đặc quyền đặc lợi) không công nhận triết lí của chủ nghĩa tự do. Một số người xã hội chủ nghĩa "không tưởng tiền Marxist" đã từng đấu tranh cho lí tưởng của chủ nghĩa xã hội trong khuôn khổ của chủ nghĩa tự do; trong thời kì vàng son của chủ nghĩa tự do ở Tây Âu, ngay cả giới tăng lữ và tầng lớp quý tộc cũng đã tìm cách giành mục tiêu của mình trong khuôn khổ của nhà nước lập hiến hiện đại.

Nhưng những đảng phái mà chúng ta đang thấy hiện nay lại là những đảng phái hoàn toàn khác. Chắc chắn một phần cương lĩnh của các đảng phái đó có nói đến toàn thể xã hội, và nói đến vấn đề hợp tác xã hội. Nhưng đấy chỉ là sự nhượng bộ đối với hệ tư tưởng tự do. Nhưng điều các đảng phái này nhắm đến trên thực tế lại nằm trong phần khác của cương lĩnh, đấy cũng là phần mà họ thực sự quan tâm, và đấy cũng là phần mâu thuẫn hoàn toàn với phần nói về sự thịnh vượng cho tất cả mọi người. Các đảng chính trị hiện nay không chỉ bao gồm những nhóm người tranh đấu nhằm duy trì và mở rộng một số đặc quyền trong trật tự cũ mà họ vẫn được hưởng vì chủ nghĩa tự do, vốn dĩ chưa giành được chiến thắng hoàn toàn, vẫn để cho họ giữ. Chúng còn bao gồm cả những đảng phái hoạt động hướng đến mục đích giành địa vị đặc biệt cho một tầng lớp xã hội. Chủ nghĩa tự do hướng tới tất cả mọi người và đưa ra cương lĩnh vì tất cả mọi người. Nó không hứa hẹn đặc quyền đặc lợi cho bất kì ai. Chủ nghĩa tự do kêu gọi mọi người từ bỏ việc theo đuổi quyền lợi đặc biệt chỉ dành cho mình và phe nhóm của mình, thậm chí nó còn đòi hỏi người ta phải hi sinh, dĩ nhiên chỉ là tạm thời, những lợi ích nhỏ để đạt được những lợi ích lớn hơn. Nhưng các đảng tranh giành quyền lợi đặc biệt cho phe nhóm của mình lại chỉ hướng đến một phần của xã hội. Họ hứa với cái phần xã hội mà họ có ý định giúp đỡ đặc quyền đặc lợi bằng cách buộc phần còn lại phải hi sinh quyền lợi của chính mình.

Tất cả các đảng phái chính trị hiện nay và tất cả các hệ tư tưởng của các đảng hiện đại đều khởi nguồn từ việc phản ứng lại giáo lí của chủ nghĩa tự do trong những nhóm lợi ích tranh đấu vì đặc quyền đặc lợi. Trước khi chủ nghĩa tự do xuất hiện, dĩ nhiên là đã có các chế độ đặc quyền đặc lợi và những vụ xung đột giữa các chế độ đó với nhau, nhưng lúc đó hệ tư tưởng của xã hội đẳng cấp vẫn còn có thể được nói về mình bằng một thái độ ngay thơ và không chút bối rối. Trong những cuộc xung đột giữa những người ủng hộ và người chống đặc quyền đặc lợi thời đó không hề xuất hiện câu hỏi về tính chất phản xã hội của toàn bộ hệ thống, và không cần phải giả đò rằng hệ thống đó vẫn có cơ sở xã hội của nó. Vì vậy, ta không thể so sánh trực tiếp giữa chế độ đặc quyền đặc lợi cũ với hoạt động và tuyên truyền của các đảng phái đấu tranh giành đặc quyền đặc lợi hiện nay.

Muốn hiểu được bản chất thật sự của các đảng phái này, ta phải luôn nhớ rằng ban đầu, các đảng phái này đều được hình thành nhằm bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho một nhóm người nào đó, đi ngược lại những lời giáo huấn của chủ nghĩa tự do. Khác với học thuyết của chủ nghĩa tự do, học thuyết của các đảng phái này không phải là việc áp dụng vào lĩnh vực chính trị lí thuyết xã hội bao trùm và đã được suy nghĩ một cách thấu đáo. Hệ tư tưởng chính trị của chủ nghĩa tự do có nguồn gốc từ hệ tư tưởng nền tảng, ban đầu được phát triển như là một lí thuyết khoa học mà không ai nghĩ đến ý nghĩa chính trị của nó. Ngược lại, ngay từ khởi thủy, đặc quyền đặc lợi mà các phái bài chủ nghĩa tự do tìm kiếm đã tồn tại trong các thể chế xã hội hiện hành, và việc soạn thảo hệ tư tưởng chỉ là để nhằm biện hộ cho những đặc quyền đặc lợi như vậy; công việc này có thể giải quyết một cách dễ dàng, chỉ cần trình bày trong mấy dòng. Các nhóm điền chủ nghĩ rằng cần phải chỉ ra sự cần thiết của sản xuất nông nghiệp. Các nghiệp đoàn thì nói tới vai trò của người lao động. Các đảng phái của giai cấp trung lưu thì nói tới vai trò quan trọng của giai tầng xã hội "không thái quá cũng không bất cập". Dường như họ không quan tâm đến việc là những lời kêu gọi như thế không chứng minh được rằng những đặc quyền đặc lợi mà họ muốn giành có cần thiết hay có ích đối với toàn thể xã hội hay không. Những nhóm người mà họ muốn lôi kéo bao giờ cũng sẵn sàng đi theo họ, còn những cố gắng nhằm lôi kéo người của những nhóm khác chắc chắn sẽ thất bại.

Như thế nghĩa là tất cả các đảng phái thời hiện đại ủng hộ cho đặc quyền đặc lợi, dù mục đích của họ có khác nhau đến đâu hoặc họ có chống báng nhau đến đâu, đã lập thành một mặt trận thống nhất trong cuộc chiến đấu chống lại chủ nghĩa tự do. Trong con mắt của những đảng này thì nguyên tắc của chủ nghĩa tự do rằng quyền lợi chính đáng của mọi người về lâu dài là tương hợp nhau chẳng khác gì miếng vải đỏ vẫy trước mắt con bò tót. Họ cho rằng xung đột quyền lợi là không thể dung hòa, và chỉ có thể giải quyết được xung đột khi một bên chiến thắng các bên còn lại, và bên chiến thắng sẽ giành được lợi thế còn bên thua phải chịu thiệt thòi. Các đảng phái này cho rằng chủ nghĩa tự do không phải như là nó đang tự huyễn hoặc về mình. Đấy chính là cương lĩnh cái đảng đang tìm cách bảo vệ đặc quyền đặc lợi của một nhóm người, mà cụ thể là của giai cấp tư sản, tức là bọn tư bản và nghiệp chủ.

Lập luận này là một phần của chính sách tuyên truyền của chủ nghĩa Marx, và là đóng góp quan trọng cho thành công của chủ nghĩa này. Nếu coi học thuyết về xung đột quyền lợi giữa các giai cấp trong xã hội dựa trên tư hữu về tư liệu sản xuất là không thể tránh được là tín điều quan trọng nhất của chủ nghĩa Marx thì tất cả các đảng phái đang hoạt động ở châu Âu đều là marxist. Học thuyết về mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp và xung đột giai cấp còn được các đảng theo đường lối dân tộc chủ nghĩa chấp nhận, đấy là nói khi họ còn chấp nhận quan điểm cho rằng những mâu thuẫn đối kháng như thế đang hiện diện trong xã hội tư bản, và những cuộc xung đột do chúng tạo ra sẽ phải diễn ra một cách tự nhiên. Họ chỉ khác các đảng marxist ở chỗ họ muốn tránh các cuộc xung đột giai cấp bằng cách trở về với xã hội đẳng cấp, được xây dựng theo đề xuất của họ và đẩy cuộc chiến lên tầm vũ đài quốc tế, họ tin rằng nó sẽ phải diễn ra ở đấy. Họ không phản bác khẳng định cho rằng những cuộc xung đột như thế sẽ phải xảy ra trong xã hội dựa trên sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Họ chỉ nói rằng không được để những mâu thuẫn đối kháng như thế xuất hiện, và họ muốn dùng sự can thiệp của chính phủ để quản lí và điều tiết sở hữu tư nhân nhằm loại bỏ những mâu thuẫn đối kháng như thế. Họ muốn chủ nghĩa can thiệp thế chỗ chủ nghĩa tư bản. Nhưng cuối cùng thì họ cũng chẳng khác gì những người marxist. Họ cũng hứa sẽ đưa thế giới đến một chế độ xã hội mới, nơi không còn giai cấp, không còn đối kháng giai cấp, không còn xung đột giai cấp.

Muốn hiểu được ý nghĩa của học thuyết về đấu tranh giai cấp ta phải luôn nhớ rằng nó chống lại học thuyết của chủ nghĩa tự do về sự hài hòa của những quyền lợi đúng đắn của tất cả các thành viên của xã hội tự do, được xây dựng trên nguyên tắc sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Người theo phái tự do khẳng định rằng cùng với việc loại bỏ tất cả những sự phân biệt mang tính giả tạo giữa các giai tầng, cùng với việc loại bỏ mọi đặc quyền đặc lợi và tạo được sự bình đằng trước pháp luật thì sẽ không còn gì ngăn trở sự hợp tác hòa bình giữa tất cả các thành viên của xã hội, vì lúc đó quyền lợi lâu dài và được hiểu một cách đúng đắn của tất cả mọi người sẽ trùng hợp với nhau.

Tất cả những lời phản đối mà những người ủng hộ chủ nghĩa phong kiến, ủng hộ đặc quyền đặc lợi, tìm cách đưa ra nhằm chống lại học thuyết tự do đã nhanh chóng trở thành phi lí và chẳng được mấy người ủng hộ. Nhưng trong hệ thống lí thuyết kinh tế thị trường (catallactics) của Ricardo người ta có thể tìm thấy xuất phát điểm của lí thuyết mới về xung đột quyền lợi trong lòng xã hội tư bản. Ricardo tin rằng có thể chứng minh được trọng quá trình phát triển kinh tế sẽ diễn ra sự thay đổi trong quan hệ giữa ba hình thức thu nhập, mà cụ thể là giữa lợi tức, địa tô và đồng lương. Chính điều đó đã buộc những người cầm bút ở Anh trong các thập kỉ 30 và 40 của thế kỉ XIX phải nói đến ba giai cấp là tư sản, địa chủ và lao động ăn lương, và khẳng định giữa các giai cấp này tồn tại mâu thuẫn đối kháng không thể dung hòa. Tư tưởng này sau đó đã được Marx tiếp thu một cách trọn vẹn.

Trong tuyên ngôn của đảng cộng sản , Marx còn chưa nói đến sự khác biệt giữa đẳng cấp và giai cấp. Mãi sau này, khi làm quen và chịu ảnh hưởng từ những tác phẩm đã bị người đời quên lãng, được viết từ những năm 1820 và 1830, ở London, Marx bắt đầu nghiên cứu Ricardo và nhận ra rằng mấu chốt là phải chứng minh được ngay cả trong xã hội không còn phân biệt đẳng cấp và không còn đặc quyền mang tính đẳng cấp thì vẫn tồn tại những mẫu thuẫn không thể dung hòa. Marx vạch ra mâu thuẫn đối kháng về lợi ích như thế từ hệ thống của Ricardo, và vạch rõ ranh giới giữa ba giai cấp: tư sản, địa chủ và công nhân. Nhưng như thế không có nghĩa là lúc nào ông cũng bám chặt vào sự phân biệt kiểu đó. Đôi khi ông khẳng định rằng chỉ có hai giai cấp là hữu sản và vô sản, lúc khác ông lại nói tới nhiều giai cấp hơn là hai hoặc ba giai cấp lớn. Nhưng cả Marx lẫn những môn đồ của ông đều chưa bao giờ đưa ra định nghĩa về bản chất của các giai cấp. Đáng chú ý là chương mang tên "các giai cấp" trong tập III tác phẩm Tư bản luận lại chấm dứt ngay chỉ sau có vài dòng. Đã hơn một thế hệ trôi qua - đấy là tính từ khi xuất hiện Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, trong đó lần đầu tiên Marx đưa ra mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp và đấu tranh giai cấp - cho đến ngày Marx qua đời. Trong thời gian đó, Marx đã viết hết tập sách này đến tập sách khác, nhưng ông vẫn không bao giờ giải thích "giai cấp" nghĩa là gì. Trong việc xử lí vấn đề "giai cấp", Marx không bao giờ vượt qua được khẳng định đơn thuần của tín điều hay nói đúng hơn là một khẩu hiệu mà không đưa ra bất kì chứng minh nào.

Muốn chứng minh rằng học thuyết đấu tranh giai cấp là đúng, người ra phải chỉ ra được hai điều: một mặt, các thành viên của mỗi giai cấp đều có quyền lợi như nhau, và mặt khác giai cấp này được lợi thì giai cấp kia nhất định phải bị thiệt. Nhưng điều này đã không bao giờ được chứng minh. Lí do chính là vì tất cả các "đồng chí trong cùng giai cấp" đều có cùng "hoàn cảnh xã hội" như nhau nhưng họ không có cùng quyền lợi, đúng hơn là họ luôn cạnh tranh với nhau. Ví dụ như người công nhân làm việc trong những điều kiện thuận lợi hơn mức trung bình muốn loại bỏ những người cạnh tranh với mình vì những người đó có thể kéo thu nhập của anh ta xuống mức trung bình của xã hội. Trong hàng chục năm, khi học thuyết về tình đoàn kết quốc tế của giai cấp vô sản được nhắc đi nhắc lại trong những tuyên ngôn dông dài tại những kì đại hội của các tổ chức marxist thì công nhân ở Mĩ và Australia lại đưa ra những rào cản mạnh mẽ nhất nhằm ngăn chặn người nhập cư. Bằng cách đưa ra hệ thống phức tạp những quy định vụn vặt, các công đoàn Anh đã làm cho những người bên ngoài không thể thâm nhập lĩnh vực lao động của họ. Về lĩnh vực này, mọi người đều biết rõ, trong mấy năm qua các đảng lao động trong mỗi nước đã làm được những việc gì. Dĩ nhiên là ai đó có thể nói rằng đáng lẽ ra không nên như thế; giai cấp công nhân lẽ ra phải làm khác đi; điều họ đã làm là sai rồi. Nhưng không thể phủ nhận là họ đã làm vì quyền lợi của mình - ít nhất cũng là vì quyền lợi ngay tại thời điểm đó.

Chủ nghĩa tự do đã chứng minh rằng trên thực tế, trong xã hội dựa trên sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất, giữa các nhóm người và các giai tầng khác nhau không hề có mâu thuẫn đối kháng về quyền lợi như dư luận xã hội thường nói. Khi đồng vốn trong toàn xã hội tăng lên thì thu nhập của tư sản và địa chủ tăng lên theo nghĩa tuyệt đối, còn thu nhập của người lao động tăng lên cả theo nghĩa tuyệt đối lẫn tương đối. Mọi sự thay đổi về thu nhập của những nhóm người khác nhau - nghiệp chủ, tư sản, địa chủ và công nhân - bao giờ cũng xảy ra cùng một lúc và theo cùng một hướng - phụ thuộc vào sự thăng giáng của thị trường; sự khác nhau chỉ là tương quan giữa những phần của toàn bộ sản phẩm xã hội mà họ được chia. Chỉ có trong trường hợp nắm độc quyền khai thác một số khoáng sản nào đó thì lợi ích của địa chủ mới đối lập với lợi ích của những nhóm người khác. Lợi ích của nghiệp chủ không bao giờ khác biệt với lợi ích của người tiêu dùng. Để thành công hơn nữa thì nghiệp chủ càng phải nắm bắt tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng.

Xung đột lợi ích chỉ có thể xảy ra khi quyền tự do sử dụng tư liệu sản xuất của chủ sở hữu bị chính sách can thiệp của chính phủ hay của các lực lượng xã hội có sức mạnh cưỡng chế ngăn cản. Ví dụ như giá một loại hàng hóa nào đó có thể tăng một cách giả tạo vì nhà nước áp dụng biểu thuế bảo hộ, hay lương của một nhóm công nhân nào đó có thể tăng vì người ta không cho những người cạnh tranh được làm công việc của họ. Những trường hợp kiểu như thế này đều được lí giải bằng lí luận của trường phái thương mại tự do, vốn chưa bị ai bác bỏ, và thực ra là không thể bác bỏ được. Dĩ nhiên là đặc quyền đặc lợi có thể làm lợi cho một nhóm người cụ thể nào đó, chúng được hình thành là để dành cho nhóm người như thế, nhưng đấy là nói khi các nhóm người khác không đòi được đặc quyền đặc lợi tương tự. Nhưng không thể nào lừa dối được đa số dân chúng ý nghĩa thực sự của những món đặc quyền đặc lợi, họ sẽ không tự nguyện chịu đựng mãi như thế. Nếu dung vũ lực để buộc họ phải chấp nhận thì có nghĩa là khơi mào cho bạo loạn - tóm lại, sẽ có rối loạn trong sự hợp tác một cách hòa bình trong xã hội. Mà bảo vệ sự hợp tác hòa bình là quyền lợi của tất cả mọi người. Có thể giải quyết vấn đề bằng cách làm cho đặc quyền đặc lợi không phải là biệt lệ của một vài người, nhóm người hay giai tầng xã hội mà là quy luật chung, ví dụ như áp dụng thuế nhập khẩu nhằm bảo hộ đa số các món hàng đang được bán trên thị trường trong nước hay sử dụng những biện pháp tương tự nhằm ngăn chặn người mới, không cho họ thâm nhập vào đa số các ngành nghề hiện có. Nhưng lúc đó, lợi ích mà mỗi nhóm nhận được sẽ bị triệt tiêu bởi những thiệt hại mà chắc chắn họ sẽ phải gánh chịu, và kết quả là mọi người đều bị thiệt hại vì những biện pháp như thế đã làm cho năng suất lao động giảm đi.

Nếu người ta bác bỏ học thuyết của chủ nghĩa tự do, nếu người ta chế giễu lí thuyết đang còn gây tranh cãi về "sự hài hòa lợi ích của tất cả mọi người", thì tư tưởng cho rằng có thể có sự thống nhất lợi ích trong các nhóm nhỏ hơn, ví dụ như giữa những người trong cùng một quốc gia (chống lại những quốc gia khác) hoặc giữa những người trong cùng một "giai cấp" (chống lại những giai cấp khác), được tất cả các trường phái bài chủ nghĩa tự do bảo vệ, cũng sẽ là tư tưởng sai lầm. Muốn chứng minh được sự thống nhất như thế thì cần phải có những lí lẽ đặc biệt, nhưng chưa có những lí lẽ như thế, thậm chí chưa thấy người nào có ý định làm như thế. Tất cả những lí lẽ có thể được đưa ra nhằm chứng minh cho sự thống nhất lợi ích của các thành viên của bất kì nhóm người nào đều chứng minh nhiều hơn thế, mà cụ thể là sự thống nhất một cách phổ quát lợi ích của tất cả con dân của Chúa Trời. Những xung đột về lợi ích mà thoạt nhìn tưởng như không thể giải quyết được lại có thể giải quyết được bằng cách coi tất cả nhân loại là một cộng đồng thực chất là hài hòa và không có chỗ cho bất kì mâu thuẫn đối kháng nào giữa các dân tộc, các giai cấp, các chủng tộc v.v.

Các đảng bài chủ nghĩa tự do tin rằng họ không làm cái việc là chứng minh rằng có sự thống nhất lợi ích trong nội bộ các dân tộc, các giai cấp, các sắc tộc v.v. Trên thực tế họ chỉ đề nghị thành viên của những nhóm người đó liên kết lại nhằm đấu tranh với tất cả các nhóm khác. Họ không đưa ra một khẳng định mà chỉ đưa ra một yêu cầu khi nói đến sự thống nhất lợi ích trong nội bộ các nhóm đó. Trên thực tế, họ không nói "Quyền lợi là thống nhất" mà họ nói "Liên minh phối hợp hành động phải làm cho quyền lợi trở thành thống nhất".

Ngay từ khởi thủy, các đảng đòi đặc quyền đặc lợi đã tuyên bố một cách thẳng thắn và hoàn toàn không úp mở rằng chính sách của họ là đòi đặc quyền đặc lợi cho một nhóm người cụ thể nhất định. Các đảng nông nghiệp đòi đặt ra biểu thuế bảo hộ và những mối lợi khác (trợ cấp) cho các điền chủ; đảng của các công chức nhà nước đòi đặc quyền cho các công chức; đảng của các khu vực thì đòi quyền lợi đặc thù cho dân chúng sống trong khu vực của mình. Tất cả các đảng phải này rõ ràng là chẳng đòi hỏi gì ngoài quyền lợi của một nhóm người trong xã hội, mà không để ý đến toàn thể xã hội hay những nhóm người khác, dù họ làm nhẹ bớt hành vi của mình bằng cách tuyên bố rằng xã hội chỉ thịnh vượng nếu lợi ích của ngành nông nghiệp, của các công chức v.v. được tôn trọng. Thực ra thì họ dành sự quan tâm của mình chỉ cho một bộ phận của xã hội, và cố gắng của họ nhân danh chỉ bộ phận đó ngày càng trở nên rõ ràng hơn. Khi các phong trào bài chủ nghĩa tự do hiện đại còn non trẻ thì họ phải tỏ ra thận trọng trong những vấn đề như thế vì thế hệ những người được giáo dục trên tinh thần của triết lí tự do cho rằng việc biện hộ cho đặc quyền đặc lợi của những nhóm người khác nhau là hành vi phản xã hội.

Những người đấu tranh cho đặc quyền đặc lợi chỉ có thể tạo ra những đảng phái lớn bằng cách thành lập một đơn vị tranh đấu từ những lực lượng kết hợp của những nhóm người mà quyền lợi xung đột với nhau. Tuy nhiên, quyền lợi dành cho một nhóm cụ thể chỉ có giá trị thực tiễn khi nó được dành cho một nhóm thiểu số và không nhiều hơn đặc quyền dành cho nhóm khác. Nhưng trừ phi có những hoàn cảnh đặc biệt thuận lợi, một nhóm nhỏ không thể có hi vọng trở thành một giai cấp có đặc quyền đặc lợi bao trùm lên các nhóm khác ở thời điểm hiện tại vì việc lên án đặc quyền đặc lợi của chủ nghĩa tự do vẫn còn giữ được một vài dấu tích ảnh hưởng mà nó từng có trước đây. Vì vậy mà tất cả những người ủng hộ đặc quyền đặc lợi đều tìm cách thành lập các đảng phái lớn, mà nòng cốt của nó lại là những nhóm tương đối nhỏ, có quyền lợi khác nhau, thực ra là xung đột với nhau. Nhưng cách tư duy dẫn các đảng nhỏ đến việc đưa ra và bảo vệ những đặc quyền đặc lợi như thế làm cho mục tiêu của việc liên kết một cách cởi mở các nhóm khác nhau trở nên hoàn toàn bất khả thi. Không thể đề nghị một người đang đấu tranh giành vị trí đặc quyền đặc lợi cho nhóm người của mình hay cho chính mình hi sinh, ngay cả hi sinh tạm thời. Nếu người đó có thể hiểu được lí do của những hi sinh tạm thời thì chắc chắn anh ta đã suy nghĩ như những người theo phái tự do chứ không phải như những người đang đòi hỏi đặc quyền đặc lợi. Không ai có thể công khai nói với anh ta rằng anh ta sẽ nhận được nhiều đặc quyền đặc lợi hơn là phần đặc lợi mà anh ta mất cho người khác vì về lâu dài, không ai có thể che giấu được những bài nói chuyện hay bài viết như thế và những người khác kia sẽ đòi nhiều quyền lợi hơn.

Như vậy nghĩa là những đảng ủng hộ đặc quyền đặc lợi sẽ buộc phải thận trọng. Khi nói đến mục đích của mình, họ sẽ phải dùng những ngôn từ mơ hồ nhằm che đậy bản chất của sự việc. Những đảng theo đường lối bảo hộ nền sản xuất trong nước là ví dụ điển hình của thói nước đôi như thế. Bao giờ họ cũng tìm cách trình bày lợi ích của biểu thuế bảo hộ mà họ đưa ra là lợi ích của nhóm có đông người hơn. Khi hiệp hội các nhà sản xuất ủng hộ biểu thuế bảo hộ thì lãnh tụ các đảng thường tránh không nói rằng lợi ích của các nhóm riêng biệt, thậm chí lợi ích của các công ty riêng lẻ, cũng không bao giờ trùng hợp và hài hòa với nhau. Người thợ dệt bị thiệt vì thuế nhập khẩu áp dụng cho máy và sợi chỉ ủng hộ phong trào bảo vệ sản xuất trong nước với hi vọng rằng thuế nhập khẩu đánh trên vải vóc sẽ cao, đủ bù lại những thiệt hại do thuế đánh vào những hàng hóa khác gây ra cho anh ta. Người trồng cỏ đòi đánh thuế cỏ khô nhập khẩu, nhưng người chăn nuôi thì chống lại; người trồng nho đòi đánh thuế rượu nho, điều này làm cho người nông dân không trồng nho và người tiêu thụ ở thành phố bị thiệt. Thế mà những người đòi đánh thuế nhằm bảo trợ nền sản xuất trong nước lại hành động như một đảng duy nhất có chung cương lĩnh. Điều này chỉ có thể xảy ra khi người ta dùng xảo thuật nhằm che giấu bản chất sự việc.

Cố gắng thành lập một đảng đấu tranh giành đặc quyền đặc lợi trên cơ sở chia đều đặc quyền đặc lợi cho đa số dân chúng là việc làm vô nghĩa. Đặc quyền đặc lợi dành cho số đông sẽ không còn là đặc quyền đặc lợi. Đất nước mà ngành sản xuất chính là nông nghiệp, chuyên xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp, thì đảng của những người nông dân, đòi đặc quyền đặc lợi cho nông dân sẽ chẳng thể tồn tại được lâu. Họ sẽ đòi hỏi gì? Biểu thuế bảo trợ sẽ chẳng mang lại lợi ích gì cho nông dân vì họ phải xuất khẩu, còn trợ giá cho đa số người sản xuất thì bất khả thi vì thiểu số sẽ không thể cung cấp được.

Mặt khác, nhóm thiểu số đòi hỏi đặc quyền đặc lợi phải tạo ra ảo tưởng là tuyệt đại đa số dân chúng đứng về phía họ. Khi các đảng nông dân trong các nước công nghiệp đưa ra những đòi hỏi của mình thì bao giờ họ cũng kêu gọi cả những người công nhân không có ruộng đất, những người nông dân nghèo và những điền chủ nhỏ, những người không hề quan tâm tới thuế bảo hộ sản phẩm nông nghiệp, là "dân nông nghiệp". Khi những đảng của giai cấp công nhân thay mặt một nhóm công nhân nào đó đưa ra yêu sách thì bao giờ họ cũng nói về quảng đại quần chúng công nhân, và che giấu sự kiện là lợi ích của các đoàn viên công đoàn trong những ngành sản xuất khác nhau không những khác nhau mà còn đối kháng, và thậm chí lợi ích của những người làm trong một ngành hoặc một công ty cũng xung đột với nhau.

Đây là một trong hai nhược điểm quan trọng nhất của tất cả các đảng đấu tranh giành đặc quyền đặc lợi. Một mặt, họ buộc phải dựa vào một nhóm nhỏ vì nếu dành cho đa số thì đặc quyền đặc lợi sẽ không còn là đặc quyền đặc lợi. Nhưng, mặt khác, phải khoác chiêu bài là người bảo vệ và đại diện cho đa số thì họ mới hi vọng thực hiện được đòi hỏi của mình. Việc một số đảng tại những nước khác nhau thì thoảng khắc phục được khó khăn này trong công tác tuyên truyền của họ, và đã thuyết phục được mỗi giai tầng xã hội hay từng nhóm tin rằng họ sẽ nhận được những quyền lợi đặc biệt nếu đảng chiến thắng chỉ nói lên sự khéo léo về mặt chiến thuật và ngoại giao của ban lãnh đạo đảng cũng như sự yếu kém trong đánh giá và sự non nớt về chính trị của quần chúng cử tri. Hoàn toàn không phải là giải pháp của họ là khả thi. Dĩ nhiên người ta đồng thời có thể hứa với dân thành thị giá bánh mì rẻ, và hứa với người làm ruộng giá bột mì cao, nhưng không thể thực hiện cả hai lời hứa cùng một lúc. Dễ dàng hứa với nhóm người ủng hộ việc gia tăng một số khoản chi của chính phủ mà không giảm chi một số khoản khác đồng thời lại hứa giảm thuế cho một nhóm người khác, nhưng không thể thực hiện được cả hai lời hứa như thế trong cùng một thời gian. Chiến thuật của đảng này được xây dựng trên cơ sở chia xã hội thành người sản xuất và người tiêu dùng. Họ lại thường lợi dụng việc thảo luận chính sách tài chính quốc gia nhằm biện hộ cho những khoản chi tiêu mới từ ngân quỹ, mà không hề quan tâm tới nguồn chi, đồng thời lại luôn phàn nàn về gánh nặng thuế khóa.

Nhược điểm thứ hai là yêu sách mà các đảng này đòi cho mỗi nhóm người cụ thể là những yêu sách không có giới hạn. Điều duy nhất làm cho họ phải tính toán là sự phản đối của phía bên kia. Chiến thuật này hoàn toàn phù hợp với đặc điểm của những đảng đấu tranh giành đặc quyền đặc lợi cho một nhóm người nào đó. Song, những đảng phái không có cương lĩnh rõ ràng mà chỉ muốn tạo ra xung đột nhằm giành cho bằng được ước muốn không giới hạn về đặc quyền đặc lợi của một nhóm nhất định và làm thiệt hại cho những người khác chắc chắn sẽ gây ra nguy cơ phá hoại toàn bộ mọi hệ thống chính trị. Người ta ngày càng nhận thức rõ điều đó, và bắt đầu nói đến sự khủng hoảng của nhà nước hiện đại và sự khủng hoảng của chế độ đại nghị. Nhưng trên thực tế, đấy chính là sự khủng hoảng ý thức hệ của các đảng phái đấu tranh giành đặc quyền đặc lợi hiện đại.

Nguồn bản gốc: Liberalism - The Classical Tradition. Edited by Bettina Bien Greaves, Liberty Fund, Inc. 2005

Nguồn bản dịch: Mises, Ludwig von (2013[1927]). Chủ nghĩa tự do truyền thống. Phạm Nguyên Trường dịch, Đinh Tuấn Minh hiệu đính. NXB Tri Thức. Nguyên tác: Liberalism (1927) Liberalismus (bản tiếng Đức)

Dịch giả:
Phạm Nguyên Trường
Hiệu đính:
Đinh Tuấn Minh

Tác giả liên quan