[Chế độ dân chủ: nhà nước và xã hội] - Chương 7: Các đảng chính trị và tổ chức xã hội
1. Các chính đảng trong xã hội dân chủ
Khác với các chế độ độc tài và toàn trị, chế độ dân chủ đòi hỏi sự tham gia của quảng đại quần chúng vào đời sống của đất nước. Từng cá nhân, các nhóm, các hiệp hội, đảng phái, không nhất thiết phải nằm trong các cơ cấu quyền lực cũng, thứ nhất, gây ảnh hưởng đến quyết định của cử tri và như vậy có thể gián tiếp kiểm soát hoạt động của chính quyền; thứ hai, giữa các kì bầu cử, có thể thể hiện sự đồng ý hoặc không đồng ý, thậm chí bất phục tùng các biện pháp của chính quyền, dĩ nhiên là trong khuôn khổ của pháp luật.
Trong chương này chúng ta sẽ xem xét: công dân có thể kiểm soát và gây ảnh hưởng đến chính sách của chính phủ bằng cách nào?
Làm thế nào để ngăn chặn các sai lầm của chính phủ trước khi nó xảy ra và sửa chữa một cách ít đau đớn nhất mỗi khi nó xảy ra?
Xã hội văn minh tác động lên chính sách bằng những phương tiện gì?
Trong xã hội dân chủ có rất nhiều lực lượng khác nhau cùng hoạt động, chúng đều ít nhiều tác động đến việc đưa ra quyết định, soạn thảo và thực hiện các chương trình của nhà nước và có khi còn quyết định tới chính sách đối nội cũng như đối ngoại của quốc gia.
Đấy là: các đảng phái, các tổ chức công đoàn, các tổ chức xã hội, các tổ hợp công nghiệp-quân sự và tầng lớp trí thức tinh hoa.
Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, nghiên cứu dư luận xã hội, thu thập chữ kí, tổ chức biểu tình, thông qua hệ thống giáo dục, thông qua các tác phẩm văn học và nghệ thuật, các tổ chức nói trên có thể mở rộng cơ sở xã hội của mình, nghĩa là lôi kéo thêm nhiều người mới tham gia vào phong trào. Đồng thời, càng ngày họ càng mở rộng thêm khả năng tác động vào chính sách của nhà nước.
Phương tiện tác động quan trọng nhất đối với đời sống chính trị của đất nước là các đảng phái chính trị.
Tồn tại khá nhiều quan điểm thế nào là một đảng phái chính trị.
Một trong những định nghĩa đầu tiên về đảng là của E. Berk, nhà triết học theo trường phái bảo thủ, như sau: “Đảng là một tổ chức của những người liên kết lại với nhau với một nguyên tắc đặc thù để tạo ra đồng thuận nhằm thúc đẩy quyền lợi quốc gia bằng những nỗ lực chung”.
M. Weber lại cho rằng đảng là tổ chức xã hội, kết nạp thành viên trên cơ sở tự nguyện, đặt ra mục tiêu giành qyuền lực để lãnh đạo và tạo cho các đảng viên tích cực những điều kiện (tinh thần và vật chất) đặc quyền và đặc lợi hoặc đồng thời cả hai.
Cũng có người cho rằng đảng là “tổ chức của thành phần tích cực của một giai cấp (tầng lớp), đặt ra cho mình mục đích tiến hành cuộc đấu tranh chính trị vì quyền lợi của giai cấp (tầng lớp) ấy và là tổ chức thể hiện và bảo vệ những quyền lợi ấy một cách kiên định nhất”.
Theo bạn định nghĩa nào thể hiện đúng nhất bản chất của một đảng chính trị?
Các đảng phái chính trị thật muôn màu muôn vẻ, các đảng có thể khác nhau về số lượng đảng viên, về mục đích, về phương tiện và phương pháp hoạt động, về thời gian thành lập, về thành phần dân tộc..v.v... Chúng tôi cho rằng trước hết phải chỉ rõ những khía cạnh đặc thù phân biệt giữa một đảng chính trị với các tổ chức và các nhóm quần chúng khác.
Đảng trước hết là một tổ chức có cơ cấu rõ ràng và thứ hai, đấy là tổ chức của những người đồng chí hướng.
Nhưng khi nói đến các đảng phái chính trị, người ta thường nghĩ đến một loạt đặc điểm chủ yếu sau đây:
1. Đấu tranh giành chính quyền là mục đích của mọi chính đảng.
2. Tất cả các đảng đều xác định rõ mục đích và nhiệm vụ hoạt động trong các tài liệu mang tính cương lĩnh (cương lĩnh hoặc tuyên bố mang tính cương lĩnh)
3. Tất cả các đảng phái đều phải lập được chiến thuật hoạt động.
4. Nguyên tắc tổ chức được xác định trong điều lệ đảng.
Các đảng phái thường có biểu tượng riêng, tuy nhiên, các phong trào khác, không phải là các phong trào chính trị, cũng có thể có các biểu tượng như thế.
6. Các đảng chính trị thường tìm cách mở rộng các mối liên hệ với quần chúng, sử dụng các phương tiện truyền thông (các đảng thường có các ấn phẩm định kì), các diễn đàn của các tổ chức nhà nước hoặc xã hội để tiến hành đấu tranh giành ảnh hưởng chính trị trong quần chúng. Các đảng phái còn thường xuyên sử dụng các mối liên hệ trực tiếp với quần chúng như tham gia mít tinh, tranh luận công khai..v.v...
Tất các đảng phái chính trị đều, ở mức độ này hay mức độ khác, đều có những đặc điểm nêu trên.
Ban đầu người ta cho rằng các đảng phái là xấu, là nguyên nhân của các xung đột và tranh chấp. Nhưng ngày nay, ta phải nhận rằng các đảng phái có ảnh hưởng rất lớn trong đời sống của mọi quốc gia. Solzhenytsin từng nói: “Chúng ta không thể nào tưởng tượng được đời sống chính trị mà không có đảng phái, cũng như đời sống cá nhân không có gia đình”.
Xin bạn hãy suy nghĩ xem vì sao các đảng chính trị lại có ảnh hưởng lớn như thế đến đời sống chính trị của xã hội? Theo bạn, đấy có phải là do trong các chế dân chủ đại diện, quyền lợi của từng cá nhân được thể hiện thông qua các đại biểu dân cử. Đảng chính trị là phương tiện truyền đạt quyền lợi hay được sử dụng nhất.
Bạn có đồng ý với quan điểm này không?
Có rất nhiều đảng phái khác nhau, vì vậy cũng có rất nhiều cách phân loại khác nhau. Trong sách báo Liên Xô, người ta chỉ sử dụng cách phân loại với quan điểm giai cấp của Lenin. Thí dụ, trước Cách mạng tháng Mười, Lenin đưa ra ba tập đoàn chính trị chủ yếu (tương tự là ba loại đảng phái chính trị): địa chủ-phong kiến, dân chủ tư sản, dân chủ cách mạng. Không hạ thấp vai trò của Lenin trong việc nghiên cứu hoạt động của các đảng phái ở Nga, nhưng không nên quên rằng Lenin nghiên cứu vấn đề này trước hết như một lãnh tụ chính trị chứ không phải như nhà chính trị học chuyên nghiệp. Như vậy là ta chỉ nên coi cách phân loại của Lenin như một trong những tiếp cận vấn đề mà thôi. Mặt khác, cũng không được quên rằng phương pháp tiếp cận lịch sử nước Nga mang tính giai cấp hồi cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX cũng còn là vấn đề cần bàn vì quá trình phân hoá giai cấp lúc đó chưa hoàn toàn kết thúc. Trong các tài liệu pháp luật và trong đời sống hàng ngày ở Nga, việc phân chia thường được thực hiện theo giai tầng hoặc theo tôn giáo.
Có rất nhiều quan điểm về việc phân loại các lực lượng chính trị và đảng phái chính trị. Trước hết đấy là chia thành “cánh hữu” và “cánh tả”. Nhưng cách tiếp cận như thế đã vô hình chung đơn giản hoá và không phản ánh được hoàn cảnh thực tế. Trong trường hợp này ta không thể phân biệt được những quyền lợi mang tính dân tộc, xã hội và tôn giáo, cũng có nghĩa là không nhìn thấy các cơ cấu chính trị thể hiện những quyền lợi đó.
Ngoài ra, trên thế giời người ta còn phân chia các đảng theo: nguyên tắc xã hội, theo mục tiêu đấu tranh, theo các phương tiện và biện pháp đấu tranh nữa.
Người ta còn phân chia các đảng thành: tiền phong (Đảng cộng sản Liên Xô là thí dụ tiêu biểu); đảng nghị viện (các đảng ở Anh, Pháp, Mĩ, Canada); đảng-công xã, đảng-câu lạc bộ.
Đặc điểm chủ yếu của các đảng “tiền phong” là: chủ nghĩa tập trung, cấp dưới tuyệt đối phục tùng cấp trên.
Những đặc điểm này không chỉ có trong giai đoạn đấu tranh giành quyền lực mà còn tồn tại ngay cả khi đã nắm được chính quyền. Trong những điều kiện nhất định, các đảng như thế sẽ thoái hoá thành đảng toàn trị. Đảng viên các đảng toàn trị phục tùng một tư tưởng, cái tư tưởng cùng với thời gian sẽ bị nhân cách hoá, nghĩa là lãnh tụ đảng đóng vai trò người truyền bá hệ tư tưởng ấy đã trở thành thánh sống của họ. Các đảng “tiền phong” bao giờ cũng là những đảng cách mạng vì mục đích chủ yếu của họ là cải tạo lại toàn bộ xã hội. Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga và hậu duệ của nó là Đảng Cộng sản Liên Xô có thể coi là những thí dụ điển hình của các đảng toàn trị. Nhiều đảng công sản và dân chủ xã hội thế kỉ XX cũng có thể coi là những đảng kiểu này. Người ta gọi đấy là các đảng “tiền phong” để phân biệt với các đảng nghị viện. Cũng phải nhấn mạnh rằng đảng cộng sản hay đảng dân chủ xã hội mà hoạt động trong các nước dân chủ thì cũng có thể có những đặc điểm của đảng nghị viện.
Đảng nghị viện cũng đặt ra nhiệm vụ giành quyền lực. Nhưng đấy là giành được đa số trong những cơ cấu nhà nước nhờ chiến thắng trong các cuộc bầu cử. Các đảng này tiến hành thảo luận chính sách của nhà nước và xã hội, đưa ra những đề nghị về cải tạo xã hội hoặc đôi khi đứng lên đấu tranh chống lại đường lối đang được thực hiện. Nếu một đảng như thế giành được sự ủng hộ thì nó sẽ thành lập chính phủ và bắt đầu thực hiện cương lĩnh của mình. Khi cần, nó có thể thoả hiệp, hi sinh một vài quan điểm để liên hiệp với các đảng có đường lối gần giống với nó. Liên hiệp các đảng phái hay chính phủ đa đảng được thành lập bằng cách đó. Các đảng chính trị lí tưởng nhất là những tổ chức năng động, có thể thay đổi đường lối khi tình hình đất nước và thế giới đã thay đổi.
Trên thế giới, ngoài những nước có hệ thống độc đảng còn có những nước đa đảng và cả những nước gọi là lưỡng đảng. Nhưng lưỡng đảng không có nghĩa là chỉ có hai đảng chính trị, đơn giản là hai đảng nghị viện chủ yếu này là những đối thủ chính của nhau trong những cuộc bầu cử mà thôi. Mĩ và Anh là những nước thuôc hệ thống lưỡng đảng. Ở những nước này, thường thì một đảng nhận được đa số tuyệt đối phiếu trong các cuộc bầu cử. Ở Mĩ hơn hai trăm đại diện các đảng phái khác cùng tham gia tranh cử tổng thống, nhưng những người này thường thu được không quá một triệu phiếu bầu.
Cộng hoà Liên bang Đức được gọi là hệ thống hai đảng rưỡi. Đảng thứ ba cũng nhận được khá nhiều phiếu bầu và có ảnh hưởng tích cực đối với cương lĩnh của hai đảng chủ yếu kia. Đảng chiến thắng trong bầu cử thường chỉ nhận được 75-80% phiếu bầu; vì vậy, để thành lập chính phủ, một trong hai đảng chiến thắng phải mời đảng thứ ba tham gia liên hiệp.
Ở Italy cũng có hai đảng chính trị chủ yếu, nhưng một đảng là dân chủ Thiên Chúa giáo thì luôn luôn giành được đa số còn đảng cộng sản thì luôn đóng vai trò đảng đối lập.
Người ta còn chia các đảng thành đảng cầm quyền và đảng đối lập nữa. Đối lập là gì?
Ngay từ năm 1747, nhà quí tộc người Anh, ông Bolingbrooke, là người đầu tiên xác định bản chất của khái niệm này. Các đảng thất bại trong cuộc bầu cử có nhiệm vụ: thứ nhất, phê phán một cách có hệ thống hoạt động của chính phủ, chỉ ra sai lầm và nhược điểm của nó; thứ hai, kiểm tra các hoạt động của chính phủ xem có phù hợp với hiến pháp không, có phù hợp với những hứa hẹn khi tranh cử và có phù hợp với những nguyên tắc đạo đức được xã hội công nhận hay không; và thứ ba, đề xuất phương án giải quyết những vấn đề đang được đặt ra.
Các đảng đối lập cũng như đảng cầm quyền đều phải tuân thủ quyền lợi chung và đấu tranh bằng những biện pháp chính trị, nghĩa là cố gắng cải thiện trật tự chính trị hiện hành. Nhưng thường thì các đảng có ý định sử dụng biện pháp cách mạng để thay đổi chế độ chính trị xã hội cũng tự gọi mình là “đối lập”. Tuy nhiên, chỉ có những đảng không đe doạ cơ sở hiến pháp và hệ thống quản lí của đất nước mới có thể được coi là đối lập thực sự mà thôi.
Trong các nhà nước dân chủ, quy chế và hoạt động của các đảng phái chính trị được điều chỉnh bằng một bộ luật đặc biệt. Thí dụ như Luật về đảng phái của Cộng hoà Liên bang Đức (1967) xác định rất cụ thể quy chế pháp lí của các đảng phái. Nhưng cũng có nước, thí dụ Anh, Thụy Sĩ, Úc, Canada, không có những bộ luật như thế, ở đây các đảng hoạt động trên cơ sở những nguyên tắc được hiến pháp quy định.
Như vậy là, các đảng thực hiện chức năng liên kết quyền lợi của các tầng lớp xã hội khác nhau. Các đảng biến những quyền lợi khác nhau này thành đường lối chính trị và khi có điều kiện thì thực thi chúng trên bình diện quốc gia, bảo đảm mối liên hệ giữa các nhánh và cấp chính quyền, đưa ra các giải pháp mang tính thoả hiệp.
Ngoài ra, các đảng chính trị còn:
- Đóng vai trò trung gian giữa những tầng lớp xã hội khác nhau;
- Vận động về tư tưởng và tổ chức trong các chiến dịch tranh cử;
- Cử các đại biểu tham gia tranh cử (đa số ứng cử viên là đại diện của các đảng phái)
Thường thì tên đảng đã phản ánh quan điểm chính trị, dân tộc và lãnh thổ, mối liên hệ với tôn giáo, xã hội hay nghề nghiệp (thí dụ Đảng Bảo thủ ở Anh, Đảng Dân chủ Xã hội hay Đảng Xanh ở Cộng hoà Liên bang Đức).
Các đảng phái tôn giáo như Thiên chúa giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo có vai trò rất to lớn.
Có đảng ủng hộ thị trường và tự do kinh doanh, có đảng, ngược lại, ủng hộ nền kinh tế kế hoạch hoá. Có đảng của các điền chủ, lại có đảng của nông dân, có đảng hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường..v..v...
Có cả một nhóm những đảng mang tên “phát-xít”. Đảng phát-xít đầu tiên do Benito Mussolini thành lập ở Italy vào năm 1919. Từ phát-xít gốc Ý có nghĩa là “chùm”, “bó”, đầu thế kỉ XIX vốn là biểu tượng của sự thống nhất của nước Ý. Sau này, tên đó được gắn với Đảng Xã hội Chủ nghĩa Quốc gia Đức, tức Đảng của Hitler. Các Đảng phát-xít đẩy dân tộc này chống lại dân tộc khác, dùng bạo lực để nô dịch các dân tộc. Khi giành được chính quyền, những đảng này lập tức xoá bỏ các truyền thống dân chủ, đàn áp đối lập. Cần phải nói rằng các đảng phát-xít và các tổ chức tân phát-xít (có thể với tên gọi khác, nhưng giữ nguyên biểu tượng và phương thức hoạt động truyền thống) xuất hiện ở cả những nước mà trong những năm 20-40 (thế kỷ XX – ND) tư tưởng phát-xít đã bị bác bỏ, nước Anh là một thí dụ. Ảnh hưởng tiêu cực của những đảng đó thể hiện rất rõ ở Mĩ Latin, châu Á và châu Phi.
Trong các nước dân chủ, các đảng bảo thủ, tự do, xã hội hay cộng sản, sau khi giành thắng lợi trong tuyển cử sẽ thành lập chính phủ. Như đã nói bên trên, chính phủ có thể là đa đảng. Chính phủ có thể là đa số, thiểu số hoặc liên hiệp. Trong trường hợp thứ nhất, đảng cầm quyền có thể lãnh đạo đất nước một cách tự tin, có thể thực hiện cả những chương trình còn gây tranh cãi, mà nếu đảng không nắm đa số tuyệt đối trong các cơ quan lập pháp thì không thể nào thực hiện được. Chính phủ thiểu số thường thiếu ổn định vì phải thoả hiệp và hợp tác với những đảng khác. Rõ nhất là sự thay đổi chính phủ thường xuyên ở Italy và Israel, đấy là các chính phủ thiểu số. Những người ủng hộ cho việc thành lập chính phủ thiểu số thường đưa ra những lí lẽ sau đây: thứ nhất, chính phủ thiểu số thường rất nhạy cảm đối với dư luận xã hội; thứ hai, những chính phủ này thường ít khi thực hiện những chương trình mâu thuẫn với nhau.
Đấy là một trong những lí do để George Washington và các đồng tác giả khác của Hiến pháp Hoa Kì đưa ra hệ thống “kiếm chế và đối trọng” của các nhánh quyền lực: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ở Mĩ, tình trạng gọi là “thiểu số” xuất hiện khi tổng thống và đa số thuộc lưỡng viện quốc hội là người của những đảng khác nhau. Tổng thống Ronald Reagan năm 1980 giành thắng lợi khi đảng của ông (Đảng Cộng hoà) nắm đa số ở cả hai viện quốc hội. Tổng thống Bill Clinton năm 1990 cũng cầm quyền khi đảng của ông (Đảng dân chủ) kiểm soát lưỡng viện quốc hội. Nhưng sau này, vào năm 1994, tình hình đã thay đổi: đa số Thượng viện thuộc phe đối lập. Thượng viện cũng ở thế đối lập trong nhiệm kì thứ hai của Ronald Reagan và George Bush (cả hai đều thuộc Đảng Cộng hoà). Ở Mĩ, cử tri có ảnh hưởng rất lớn đối với các nghị sĩ, cho nên không phải lúc nào dự luật hoặc đề nghị của Tổng thống cũng được quốc hội thông qua. Tuy vậy, ở Mĩ không cần tiến hành những cuộc bầu cử mới, như thường thấy trong các nền dân chủ đại nghị khác; Tổng thống chỉ cần chứng minh sự cần thiết của đề nghị hay dự luật của mình với quốc hội là đủ.
Trong những điều kiện của chế độ dân chủ, không thể có một đảng nào được mọi người cùng công nhận là đảng cầm quyền xứng đáng nhất. Vì vậy mà không có đảng nào cầm quyền được lâu. Nhật và Italy là hai trường hợp ngoại lệ, mặc dù như ta đã thấy, đảng dân chủ-tự do cầm quyền trong một thời gian dài đã bị thay bằng liên minh gồm 8 đảng vào năm 1993.
Việc một đảng cầm quyền trong một thời gian dài (Liên Xô, Mexico) chỉ chứng tỏ rằng đấy là những nước chưa dân chủ chứ không phải là đảng cầm ền quylà không chê vào đâu được. Và cuối cùng, phải nhấn mạnh rằng việc thay đảng cầm quyền trong những nước dân chủ thường không kéo theo những thay đổi căn bản trong chính sách kinh tế.
Trong những nước dân chủ, cạnh tranh chính trị đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của các đảng phái, nó cũng thâm nhập vào mọi lĩnh vực của các tổ chức đảng. Nhất là khi ta nói đến cơ sở xã hội, đến lựa chọn phương thức đấu tranh, cử ứng viên tham gia tranh cử..v..v...
Đến đây chúng ta cũng cần xem xét lịch sử một số đảng quan trọng nhất ở Mĩ, Anh và Nga.
Các đảng chính trị ở Mĩ
Đảng Dân chủ được thành lập ngay trong những năm đầu tiên của nền Cộng hoà và thể hiện những quan điểm và lí tưởng của những người sáng lập ra nó là Thomas Jefferson và các đồng chí của ông. Đây là đảng theo đường lối tự do cổ điển, triết lí của nó là chính phủ càng ít can thiệp sâu vào đời sống của người dân thì càng tốt, nghĩa là xã hội càng độc lập với chính phủ thì càng tốt. Nhưng dưới thời các tổng thống Franklin Delano Roosevelt (1933-1945) và Lyndon Johnson (1963-1969) thì đảng đã thay đổi một cách cơ bản đường lối của mình. Thực chất của các thay đổi ấy là quan niệm cho rằng chính nhà nước phải bảo đảm sự công bằng trong xã hội, phải là lực lượng tạo nên thế cân bằng trong xã hội. Nghĩa là chính phủ phải giảm nhẹ tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đối với những thành phần dân cư dễ bị tổn thương nhất. Các tổng thống đảng viên Dân chủ là: F. D. Roosvelt, G. Truman, J. Kennedy, L. Johnson, J. Carter, B. Clinton.
Đảng Cộng hoà được củng cố dưới thời tổng thống A. Lincoln (1861-1865). Chính sách của Đảng Cộng hoà là bảo vệ chủ nghĩa tư bản truyền thống: giảm tối đa sự kiểm soát của nhà nước, giảm thuế, quân đội mạnh, chính sách đối ngoại mềm dẻo. Nguyên tắc chủ yếu của họ là: “Nước Mĩ trên hết!” Các tổng thống đảng viên Cộng hoà: D. Eisenhower, R. Nixon, J. Ford, R, Reagan, G. Bush.
Hiện nay, hai đảng này đều có thành phần đảng viên rất không đồng nhất. Cả hai đảng đều có đảng viên là các doanh nhân, điền chủ, giáo chức, bác sĩ, viên chức. Nghĩa là họ cố gắng hợp nhất quyền lợi của những người hoàn toàn khác nhau. Phải nói thêm rằng hiện nay Đảng Dân chủ hợp tác chặt chẽ với các tổ chức công đoàn, cố gắng mở rộng ảnh hưởng trong giới trí thức và tầng lớp trung lưu, ủng hộ các thành phần dân tộc và tôn giáo thiểu số. Đảng Cộng hoà lại được tầng lớp doanh nhân, quân nhân, điền chủ, thành phần trí thức, có xu hướng bảo thủ ủng hộ. Hai đảng này có ảnh hưởng rất lớn không chỉ bên trong nước Mĩ mà còn gây được ảnh hưởng ở những nước dân chủ khác.
Cần phải ghi nhận rằng cả hai đảng đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, không những trong việc quản lí đất nước mà cả trong các phương pháp gây ảnh hưởng khi ở thế đối lập; hai đảng thay nhau nắm quyền cai trị thông qua những cuộc bầu cử dân chủ.
Cả hai đảng đều thực hiện việc lựa chọn ứng cử viên một cách cực kì cẩn thận: ở Mĩ hiếm có người nào nhảy ngay được vào tầng lớp chính khách cao cấp. Thường thì đấy là con đường khá dài, phải trải qua từng nấc thang một. E. Kennedy là một ngoại lệ, ông đã trở thành thượng nghị sĩ của bang Massachusetts ngay sau khi tốt nghiệp đại học và giữ cương vị này hơn 25 năm. Con đường hoan lộ thênh thang như vậy một phần là nhờ sự nổi tiếng của cha và người anh là cố tổng thống J. Kennedy.
Người ta thường cho rằng tổng thống Mĩ đứng trên các đảng phái. Trong một bài diễn văn, Thomas Jefferson đã nói một câu nổi tiếng như sau: “Mọi sự khác nhau về ý kiến đều không phải là khác nhau về nguyên tắc. Khác nhau về tên gọi, nhưng chúng ta là những người ủng hộ cùng một nguyên tắc. Tất cả chúng ta đều là những người cộng hoà, tất cả chúng ta đều là những người ủng hộ chế độ liên bang”.
Nhưng vì ứng cử viên là do các đảng giới thiệu nên tổng thống có mối liên hệ mật thiết với đảng, cần sự ủng hộ của các đảng viên, dù rằng sau khi đắc cử mối liên hệ có thể yếu đi. Sau khi trở thành tổng thống, ứng viên bắt đầu kêu gọi sự ủng hộ của toàn thể cử tri.
Ở Mĩ, dân chúng thường tỏ ra tích cực trong giai đoạn tranh cử. Họ thường gặp gỡ ứng viên, tham gia thu thập chữ kí, biểu tình, vận động người khác ủng hộ ứng viên, và cuối cùng là quyết định “bỏ phiếu cho ai”.
Đa số cử tri ủng hộ cho một đảng nào đó, dù họ không phải là đảng viên. Người Mĩ coi việc tham gia vào tiến trình dân chủ là nghĩa vụ và trách nhiệm công dân.
Quĩ của đảng là do các tổ chức và cá nhân ủng hộ. Ủng hộ nhiều nhất là các tổ hợp công nghiệp và nghiệp đoàn chứ không phải cá nhân.
Các đảng phái chính trị ở Anh
Các đảng chính trị ở Anh xuất hiện từ thế kỉ XVII, sau khi Nữ hoàng Elizabeth, vốn không có người nối nghiệp trực tiếp, tạ thế. Dòng họ Stuart tỏ ra không đủ khả năng giải quyết những vấn đề phức tạp đang đặt ra trước đất nước: James I (1603-1625) và Charles I (1625-1649) khăng khăng cho rằng họ tiếp tục cai trị vì là “thiên tử”. Chales I giải tán quốc hội, từ năm 1628 đến năm 1640 chế độ dân chủ đại nghị không tồn tại ở Anh. Xuất hiện hai đảng: các đảng viên bảo hoàng tự gọi mình là Cavalier, đây chính là tiền thân của những người bảo thủ sau này. Những người ủng hộ chế độ dân chủ tự gọi mình là “đầu tròn” chính là tiền thân của những người tự do về sau. “Đầu tròn” tiến hành “bảo vệ” chế độ dân chủ bằng vũ lực: cuộc nội chiến đã dẫn đến việc thành lập nước cộng hoà, Nhà vua bị xử giảo vào năm 1649. Từ đó trở đi những người bảo thủ và người theo phái tự do đã thường xuyên đấu tranh không khoan nhượng với nhau để giành quyền kiểm soát quốc hội.
Trong thế kỉ XX, những người Labourist (lao động) đã dần dần thay thế những người thuộc phái tự do trong vai trò đối lập với phái bảo thủ (Tori).
Các đảng chính trị ở Anh có sự phân hoá rất lớn về quan điểm và thành phần xã hội. Đảng viên Tori thường thuộc tầng lớp có của, có học, tin vào chính phủ mạnh và trung thành với những giá trị truyền thống. Họ không phủ nhận cải cách, nhưng cho rằng phải rất thận trọng. Đảng viên Đảng Lao động là những người nghèo hơn, ít học hơn và hi vọng rằng chính phủ sẽ dùng thuế đánh vào người giầu để tạo công bằng trong xã hội.
Đảng Bảo thủ và Đảng Lao động có quan điểm hoàn toàn khác nhau về vai trò của chính phủ trong lĩnh vực kinh tế và đời sống xã hội. Đảng Lao động ủng hộ việc nâng cao vai trò của chính phủ trong việc giải quyết những vấn đề xã hội. Dưới tác động của Đảng này, nước Anh đã tiến hành công cuộc cải cách giáo dục, thực hiện việc chữa bệnh miễn phí, tăng thêm tài trợ của nhà nước cho các phương tiện truyền thông đại chúng và công nghệ điện ảnh, xây dựng nhà ở, quốc hữu hoá ngành luyện kim, đóng tầu, năng lượng và giao thông vận tải. Đảng Bảo thủ (dưới thời Margaret Thatcher và John Major) đã xem xét lại nhiều chương trình của chính phủ và xem xét lại việc sử dụng ngân sách nhà nước. Một số công ty đã bị giải tư.
Những thay đổi ở lục địa châu Âu đã được phản ánh trong quan điểm và hoạt động của các chính đảng ở Anh. Thí dụ, Đảng Lao động đã phản ứng khá gay gắt trước việc nhiều người Anh có thể thất nghiệp khi hình thành thị trường lao động chung trên toàn châu Âu. Đảng Bảo thủ phải thay quan điểm khi đồng bảng Anh, một trong những đồng tiền ổn định nhất châu Âu, mất giá.
Đảng Bảo thủ được các công ty lớn tài trợ, trong khi Đảng Lao động lại dựa vào các tổ chức công đoàn, hiện nay các công đoàn còn buộc đoàn viên của mình đóng góp cho những quĩ này.
Trong chế độ đại nghị, mỗi đảng đoàn là một khối thống nhất, mọi thành viên đều phải tuân thủ kỉ luật. Vì thường thường trong các cuộc bầu cử, cử tri chỉ bầu cho danh sách đảng viên các đảng phái chứ không phải bầu cho những ứng viên cụ thể, cho nên đại biểu chống lại đường lối của đảng có thể bị khai trừ.
Ở Anh, từ sau Chiến tranh Thế giới II, chính phủ, ngoại trừ một trường hợp, thường nắm được đa số trong quốc hội.
Các chính đảng ở Nga và Liên Xô
Vấn đề hình thành và hoạt động của các chính đảng ở Nga có ý nghĩa thời sự, nhất là trong giai đoạn thiết lập hệ thống đa đảng hiện nay. Nhưng trước hết, ta hãy xét qua lịch sử hình thành của nó.
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, đời sống chính trị ở Nga có một số đặc thù. Chế độ quân chủ chuyên chế, giai cấp tư sản, có nhiều dân tộc cũng như một loạt nhân tố khác không thể không tạo dấu ấn lên cơ cấu chính trị của nhà nước Nga. Khác với nhiều nước khác, các chính đảng ở Nga chỉ xuất hiện vào nửa sau của thế kỉ XIX.
Trong những năm 1905-1907, ở Nga đã có khoảng 50 đảng phái, đủ mọi khuynh hướng chính trị và tư tưởng; đến năm 1917 số đảng đã tăng gấp đôi.
Các đảng lớn là: Xã hội Dân chủ (Bolshevik và Menshevik); Đảng Lao động, hình thành trong giai đoạn Duma thứ nhất; Đảng Dân chủ Cách mạng. Đây là các đảng theo đường lối cải tạo xã hội một cách triệt để. Các đảng phái trên, trừ Đảng Bolshevik, đều có thể được coi là đảng đại nghị.
Trong một thời gian dài, tầng lớp cầm quyền ở Nga không có đảng phái riêng. Chế độ của Sa Hoàng không nhận thấy nhu cầu tổ chức các lực lượng chính trị nên các nhà quí tộc và địa chủ đã thành lập nên các tổ chức có tính chất đẳng cấp nhằm bảo vệ chế độ quân chủ theo kiểu “đảng-câu lạc bộ”. Đấy là các tổ chức: Hội nghị Nga, Đảng bảo hoàng và sau này là các đảng: Liên minh Dân tộc Nga, Liên minh của Nhân dân Nga. Yêu cầu có tính cương lĩnh của các tổ chức này là: Chính thống giáo, bảo hoàng và dân tộc (nghĩa là có tính đại Nga).
Cách mạng 1905-1907 đã đẩy nhanh việc hình thành các đảng phái tư sản theo xu hướng tự do. Hai đảng lớn nhất trong số đó là: Liên hiệp 17 tháng Mười (gọi là những Người tháng Mười) và Đảng Dân chủ Lập hiến (gọi tắt là Kadet). Những đảng này cũng có thể được coi là đảng đại nghị.
Cách mạng năm 1917 đã cắt đứt hoạt động của hầu hết các đảng phái chính trị. Kết quả là ở Nga, trong suốt 70 năm qua chỉ tồn tại chế độ độc đảng, không cho phép bất kì một phong trào đối lập nào.
Việc chuyển từ chế độ toàn trị sang các nguyên tắc dân chủ đã tạo điều kiện hình thành chủ nghĩa đa nguyên chính trị và thúc đẩy quá trình phân hoá xã hội.
Cơ sở pháp lí cho việc hình thành chế độ đa đảng ở Nga được xác lập bởi Hội nghị đại biểu nhân dân Liên Xô lần thứ III vào tháng 3 năm 1990. Luật “Về các tổ chức xã hội” xác định trình tự thành lập, các quyền và nguyên tắc hoạt động của các tổ chức xã hội. Từ tháng 3 năm 1991 bắt đầu cho phép đăng kí các đảng phái và các tổ chức xã hội. Bộ Tư pháp Nga đã đăng kí các đảng phái:
Đảng Dân chủ Nga,
Đảng Dân chủ Tự do Nga,
Đảng Dân chủ Xã hội Liên bang Nga, Đảng Cộng hoà Liên bang Nga,
Đảng Nông dân Nga,
Phong trào Cải cách Dân chủ,
Đảng Nhân dân Nga, Đảng Tự do Kinh tế,
Phong trào Dân chủ Thiên chúa giáo Nga,
Hội nghị Dân tộc Nga,
Đảng Dân chủ Tự do Nga,
Mặt trận Cứu nguy Dân tộc,
Đảng Dân chủ Pháp chế,
Đảng Xã hội Chủ nghĩa của Người lao động,
Đảng Công nhân Cộng sản Nga,
Đảng Mác-xít,
Đảng Cộng sản Liên bang Nga và các đảng phái khác.
Những đảng này cũng như những đảng khác hiện đang tồn tại ở Nga có ảnh hưởng, định hướng chính trị và xã hội cũng như dựa vào những thành phần xã hội hoàn toàn khác nhau. Thí dụ, Phong trào Dân chủ tập hợp được trên 30 đảng, nhóm và các phong trào khác nhau và theo chúng tôi thì đây là lực lượng chính trị mạnh nhất hiện nay. Cuối năm 1991, đầu năm 1992 đã hình thành Phong trào Cải cách Dân Chủ quốc tế, cũng như Phong trào Cải cách Dân chủ Nga. Cả hai phong trào này đều vận động cho những cuộc cải cách sâu rộng về kinh tế, chính trị và xã hội. Những phong trào này nhắm vào các doanh nhân, điền chủ và giới trí thức; được sự ủng hộ mạnh mẽ của thanh niên.
Hội nghị Dân tộc Nga tập hợp các phong trào dân tộc chủ nghĩa và bảo hoàng cực kì đa dạng. Có mấy đảng theo xu hướng cộng sản, thí dụ như Đảng Cộng sản Nga, Nước Nga Lao động..v.v... Các phong trào này có chung đường lối là đối lập kiên quyết, nhiều khi không khoan nhượng đối với chiến lược cải cách hiện hành. Đảng Dân chủ Tự do có ý định tập hợp tất cả các phong trào theo đường lối dân tộc chủ nghĩa và tự do, đang rất được lòng quần chúng.
Các đảng này cũng như nhiều đảng khác có thể trở thành đảng nghị trường, có thực sự trung thực trong cuộc đấu tranh chính trị để giành sự ủng hộ của quần chúng hay không? Chỉ có thời gian mới trả lời được mà thôi. Nhưng ngay từ bây giờ đã có thể khẳng định rằng phục hồi lại hệ thống đa đảng là những bước đầu tiên trên con đường dân chủ hoá nước Nga. Bước tiếp theo là mở rộng và làm sâu sắc thêm những nguyên tắc dân chủ. Đấy là con đường mà tất cả các đảng và các phong trào chính trị phải đi qua.
Từ những điều đã trình bày, ta có thể thấy rằng các đảng cũng đa dạng như chính xã hội trong đó họ đang hoạt động. Những chức năng quan trọng nhất của các chính đảng trong xã hội dân chủ là đưa ra các biện pháp công bằng và hoà bình để cho công dân lựa chọn người lãnh đạo và thông qua họ, tham gia trực tiếp vào tiến trình dân chủ của đất nước.
2. Các nhóm lợi ích và Vai trò của giới tinh hoa
Nhiều công dân, tuy không phải đảng viên một đảng phái nào, nhưng cũng quan tâm đến chính sách của chính phủ. Trong những điều kiện dân chủ, họ có thể gây ảnh hưởng đến chính sách bằng những hành động đơn độc hoặc thông qua các nhóm lợi ích hay nhóm vận động hành lang (lobby). Các nhóm này có thể có mức độ tổ chức, thời gian tồn tại và hiệu quả khác nhau. Các nhóm lợi ích có thể tồn tại trong một thời gian dài, nhưng cũng có khi rất ngắn, chỉ để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể nào đó. Trên thế giới có những nhóm lobby chỉ đòi hỏi giải quyết những vấn đề kinh tế cụ thể, lại có những nhóm đòi hỏi giải quyết các vấn đề thuộc lĩnh vực văn hoá, xã hội.
Vậy, vận động hành lang (lobby) là gì?
Lobby (tiếng Anh có nghĩa là hành lang, tiền sảnh) là thành lập các nhóm gây áp lực đối với các nghị sị, mục đích là thuyết phục họ ủng hộ một dự án nào đó.
Trong xã hội dân chủ, các tổ chức như: người tị nạn, các nhóm ngôn ngữ, chủng tộc, tôn giáo, dân tộc có ý nghĩa to lớn.
Các nhóm lợi ích có vai trò to lớn trong việc hình thành dư luận xã hội. Các nhóm lợi ích kinh tế bao gồm công đoàn, hiệp hội các nhà sản xuất và buôn bán, các phòng thương mại, các nhà sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp.. v.v... Công đoàn là nhóm có ảnh hưởng hơn cả. Các hiệp hội nghề nghiệp như hội bác sĩ, hội luật gia, kĩ sư, hội địa lí, hội nghệ sĩ, hội nhà văn... cũng có ảnh hưởng rất lớn. Tham gia các hội đoàn như thế giúp nâng cao tay nghề, và như thế cũng giúp hình thành các định hướng giá trị và chính trị theo lối phe nhóm.
Các nhóm được xây dựng theo nguyên tắc sắc tộc, vùng miền (đồng hương), theo giới tính và tuổi tác (phụ nữ, thanh niên, cựu chiến binh) cũng có ảnh hưởng lớn đối với đời sống chính trị của xã hội. Các nhóm này thường dựa vào phương tiện truyền thông đại chúng để chuyển tải những vấn đề mà họ quan tâm và gây ảnh hưởng đối với chính sách.
Mỗi nhóm đều phải tích cực hoạt động, phải nghiên cứu dư luận xã hội, mở rộng cơ sở của mình, có lãnh tụ và được quần chúng ủng hộ. Các nhóm này chính là cầu nối giữa chính quyền và quần chúng. Các nhóm như thế sử dụng rất nhiều biện pháp đấu tranh khác nhau: biểu tình ôn hoà, đưa kiến nghị, bãi công, tẩy chay... Trong xã hội dân chủ, đấy là quyền của tất cả công dân hay của các nhóm đã được hiến pháp quy định.
Có rất nhiều thí dụ về dân sự bất phục tùng, mà trường hợp điển hình nhất là cuộc phản kháng bất bạo động chống lại nhà cầm quyền Anh ở Ấn Độ, một phong trào cuối cùng đã dẫn đến nền độc lập của nước này. M. Gandhi, lãnh tụ của phong trào, đã kêu gọi dân chúng bất tuân những luật lệ tước đoạt nền độc lập của Ấn Độ. Thí dụ, ông đã kêu gọi người dân không đóng thuế cho chính quyền thực dân và ông đã đứng ra lãnh đạo phong trào đòi khôi phục các quyền cá nhân đã bị chính quyền thực dân tước đoạt. Toà án không thể xử được tất cả những vụ vi phạm như thế.
Nhưng việc sử dụng những biện pháp tác động trực tiếp như thế thường dẫn tới xung đột giữa các tổ chức với các lực lượng của chính phủ. Luật pháp phải làm trọng tài trong những vụ xung đột như thế, điều quan trọng là cả phía phản đối lẫn phía bị phản đối đều bình đẳng trước pháp luật.
Các nhóm lợi ích thường sử dụng các nhà vận động hành lang (lobbist) chuyên nghiệp để tác động lên chính sách của chính phủ. Đôi khi người ta còn sử dụng các chiến dịch tuyên truyền và quảng cáo để tăng cường ảnh hưởng đối với các cơ quan lập pháp và dư luận xã hội nữa.
Nhiệm vụ quản lí ngày càng phức tạp, ngày càng đòi hỏi tính chuyên nghiệp đã đưa đến một xu hướng mới trong tiến trình dân chủ hoá: sự tập trung quyền hành vào tay những nhóm tinh hoa.
Trước hết ta xem xét các thuật ngữ: tinh hoa, tinh hoa chính trị, tập đoàn chính trị.
Thường thường, khi nói đến tầng lớp tinh hoa là người ta nghĩ tới một tầng lớp xã hội hẹp, giữ vị trí (nhờ vai trò, trình độ và khả năng kinh tế) đặc biệt trong xã hội.
Nói đến tầng lớp tinh hoa Nga, ta cần xem xét vấn đề này trong tiến trình lịch sử.
Ở Nga, từ tháng Mười năm 1917 cho đến năm 1985, tầng lớp tinh hoa chính là giai cấp cầm quyền, chủ sở hữu tập thể toàn bộ phương tiện sản xuất, là giai cấp áp đặt nền chuyên chế của mình lên toàn bộ xã hội. Tầng lớp tinh hoa trong giai đoạn Xô Viết được gọi là Nomenclatura, nghĩa là nhóm chóp bu của chế độ quan liêu, thư lại, nắm quyền và chiếm chừng 1 đến 1,5% dân số Liên Xô. Đấy là các lãnh đạo cao cấp của Đảng và nhà nước, tướng tá bộ nội vụ, Ủy ban an ninh quốc gia, quân đội, giám đốc các xí nghiệp lớn, các văn nghệ sĩ, nhạc sĩ..v.v... Chỉ có đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô mới lọt được vào tầng lớp này mà thôi.
Từ những năm 30 của thế kỉ trước, cùng với chính sách đã được cân nhắc và bản năng bảo tồn của chế độ, ở Liên Xô đã hình thành một tầng lớp tinh hoa mới. Trung thành với chế độ không chỉ thể hiện trong lĩnh vực tư tưởng và đạo đức nữa mà đã được thể hiện bằng vật chất, bằng quyền lợi của những ngươi tham gia tích cực vào việc thực thi chức năng quản lí và đàn áp. Quá trình này gợi người ta nhớ đến việc hình thành tầng lớp quí tộc thời phong kiến, chỉ với một khác biệt: trong xã hội Xô Viết, đặc quyền đặc lợi không mang tính kế thừa và không được pháp luật bảo hộ, mặc dù trong nhiều trường hợp đặc quyền đặc lợi được truyền từ thế hệ nọ sang thế hệ kia.
Ở phương Tây và Mĩ không có quá trình phân tầng trên cơ sở quyết định của chính phủ như thế.
Một trong các đặc thù của chế độ phân tầng Xô Viết là sự tồn tại của các hạt nhân trong mỗi tầng lớp. Ở Liên Xô, nghề nào cũng có tầng lớp tinh hoa, được nhiều ưu tiên ưu đãi hơn hẳn những người khác. Công nhân, nông dân, trí thức đều có tầng lớp tinh hoa của mình. Có thể bạn nghĩ khác, nhưng chúng tôi cho rằng chế độ đã sử dụng cách ấy để chứng tỏ rằng ở đây cũng có sự “bình đẳng về cơ hội”, làm nghề gì cũng là vinh quang.
Phải nói thêm rằng hệ thống phân tầng xã hội Xô Viết năng động hơn những xã hội khác: ưu tiên, ưu đãi có thể bị tước bỏ ngay khi có khuyết điểm, sai lầm..v.v... Ai cũng nhận thấy rõ điều đó, nhất là trong giai đoạn khủng bố dưới thời Stalin. Hệ thống phân tầng Xô Viết có một nghịch lí sau đây: địa vị càng cao thì càng không vững, nhất là những vị trí có liên quan đến hoạt động chính trị. Đa số nước khác thì ngược lại: nấc thang xã hội và nghề nghiệp càng cao thì càng chắc chắn. Ở Mĩ, Canada, Anh và nhiều nước khác tình hình là như thế.
Trong những năm 60 của thế kỉ XX, T. Rigby, một nhà chính trị học ở Mĩ khi nghiên cứu mối quan hệ nghề nghiệp và đảng tịch trong xã hội Xô Viết, đã rút ra kết luận như sau: “Những nghề mà chỉ đảng viên mới được làm bao gồm cán bộ đảng, cán bộ các cơ quan hành chính của chính phủ, lãnh đạo các bộ và cơ quan ngang bộ, lãnh đạo các phòng ban cấp thành phố trở lên, giám đốc các xí nghiệp quốc doanh. Ở các chức vụ này người ngoài đảng chiếm không tới 1%. Những nghề khác thực tế cũng phải là đảng viên mới được làm vì người ngoài đảng chiếm không quá 5% bao gồm: luật sư, sĩ quan quân đội, cảnh sát, chủ tịch các nông trường...”. Bạn có đồng ý với Rigby không? Đấy có phải là biểu hiện của chế độ toàn trị không?
Trong những điều kiện hiện nay, người ta thường gán cho từ giới tinh hoa ý nghĩa sau: Tinh hoa là tầng lớp tri thức nhất trong xã hội, là tầng lớp có khả năng tạo ra những ý tưởng mới trong những lĩnh vực khác nhau (chính trị, kinh tế, văn hoá...).
Tầng lớp tinh hoa chính trị là một nhóm (một phần của xã hội) thực hiện việc lãnh đạo trực tiếp đối với xã hội, nắm quyền điều hành bộ máy quản lí nhà nước.
Trong môn chính trị học hiện nay người ta đang tranh cãi xem tầng lớp tinh hoa chính trị có phải là một nhóm người thể hiện quyền lợi của toàn xã hội hay đây chỉ là nhóm đầu sỏ của tầng lớp đang nắm quyền thống trị về kinh tế. Bạn quan niệm như thế nào?
Tập đoàn chính trị thường được hiểu là tổ chức không chính thức của các nhà hoạt động chính trị hay hoạt động nhà nước nhằm giành lấy quyền lực quốc gia hoặc kiểm soát nó trên thực tế bằng những phương tiện bất hợp pháp hay tội phạm.
Sự tập trung quyền lực vào tay những nhóm tinh hoa được thể hiện qua:
thứ nhất, tăng cường quyền lực của các cơ quan hành pháp, các cơ quan hành pháp thường giành quyền ban bố pháp luật;
thứ hai, ảnh hưởng của các cơ quan chuyên trách (hội đồng, ủy ban) trong bản thân cơ quan lập pháp, nghĩa là ảnh hưởng của tầng lớp thư lại trong việc ban hành quyết định chính trị.
Ở một số nước, việc tăng cường ảnh hưởng của những nhóm thiểu số còn thể hiện ở hoạt động của các trung tâm quyền lực bí mật, không chính thức. Nếu tầng lớp tinh hoa nắm quyền ở đấy thiếu năng động thì nguy cơ “ma-phia hoá” chính quyền là rất lớn. Thí dụ, ở Columbia các nhóm mafia buôn bán ma túy có ảnh hưởng rất lớn.
Mặt khác, xã hội không thể vận hành mà không có tầng lớp tinh hoa, kể cả tầng lớp tinh hoa trên những nấc thang quyền lực cao nhất. Vai trò của tầng lớp tinh hoa là: “đưa ra các hình mẫu, các thí dụ về việc phải sống như thế nào, hành động ra sao cho có đức hạnh; đào sâu, nâng cao, làm giầu thêm những nhu cầu của con người, nghĩa là sáng tạo ra văn hoá” (István Bibo). Dù đòi hỏi có vẻ hơi cao, nhưng theo chúng tôi, Bibo hoàn toàn có lí vì nếu không có tầng lớp tinh hoa trí thức, không có những người truyền bá mẫu hình văn hoá cho các thành viên khác thì xã hội sẽ không ổn định, không thể dự báo trước được. Ở đây chúng tôi muốn nói đến không chỉ nhóm xã hội thay nhau cầm quyền mà còn nói đến tầng lớp trí thức, những người:
- Đưa ra các chương trình chính trị, kinh tế, xã hội cho các cơ quan quyền lực cũng như cho các nhóm đối lập;
- Nghiên cứu và hình thành dư luận xã hội;
- Tạo ra các định hướng đạo đức, giá trị cho xã hội.
Đấy là các nhà khoa học, các nhà hoạt động xã hội, những người hoạt động trong lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật, những người giữ cho xã hội công dân vận hành một cách bình thường, thiếu nó thì không thể nào có dân chủ được.
Về khía cạnh này, có thể nói sau Cách mạng tháng Mười, nước ta đã bị giáng một đòn nặng (các nước gọi là xã hội chủ nghĩa khác cũng vậy) vì tầng lớp tinh hoa trí thức của Nga đã bị tiêu diệt hoàn toàn, một phần di cư ra nước ngoài, nhưng phần lớn đã bị giết hại trong giai đoạn khủng bố dưới thời Stalin. Kết quả là, dưới ảnh hưởng của hệ tư tưởng đương quyền, xã hội đã đánh mất các truyền thống, các giá trị văn hoá bị bóp méo, bị xuyên tạc một cách nghiêm trọng.
Quá trình phục hưng xã hội phụ thuộc phần lớn vào việc sửa chữa sai lầm trong quá khứ, phụ thuộc vào việc hình thành con người tự do, con người có tư duy độc lập, hình thành tầng lớp tinh hoa trí thức. Không chỉ nhà nước mà tất cả các cơ cấu phi chính phủ đều phải hướng đến mục tiêu đó.
Và cuối cùng, hoạt động của bộ máy nhà nước phụ thuộc vào công tác của các nhân viên, những nhà chuyên môn của nó, nghĩa là phụ thuộc vào các đại diện của nền dân chủ. Đấy là những người ăn lương nhà nước, nằm trong bộ máy nhà nước để thực thi những chức năng quản lí xã hội. Theo M. Weber, đặc trưng chủ yếu của bộ máy quan liêu là:
1. Sự hợp lí mang tính mục đích.
2. Hệ thống các mối liên hệ theo chiều dọc được xác định một cách rõ ràng và tuân thủ một cách tuyệt đối.
3. Phân công chức trách rõ ràng trên cơ sở chuyên môn hoá hẹp.
4. Một hệ thống các quy định và nghị định xác định rõ quyền và trách nhiệm của các nhân viên.
5. Quy định rõ phương pháp và các bước đi trong khi thi hành phận sự.
Nếu những chức năng đó được tuân thủ một cách triệt để thì ta có một hình thức tổ chức có hiệu quả và năng suất cao hơn hẳn các tổ chức khác.
Một bộ máy quan liêu vận hành tốt là điều kiện bắt buộc đối với mọi hệ thống, kể cả hệ thống quản lí nhà nước. Nhưng đáng tiếc, đấy chỉ là một mặt của tấm huy chương. Trong đời sống hàng ngày, chắc chắn các bạn từng đụng chạm với những đặc trưng khác của bộ máy quan liêu, những hiện tượng tiêu cực như thế chính là cản ngại cho mọi tiến trình cải cách.
Khi nói về bộ máy quan liêu, người ta thường hay nghĩ đến khía cạnh tiêu cực của nó. Chuyện đó không phải chỉ có ở nước Nga. Đấy là hiện tượng chung của mọi quốc gia, không có ngoại lệ. Tệ quan liêu giấy tờ không phải bao giờ cũng xuất phát từ những nguyên nhân khách quan. Thường thì đấy là ước muốn của những người có quyền “muốn thể hiện quyền lực của mình”. Đối với nước Nga, khía cạnh tiêu cực của khái niệm “quan liêu” đã có lịch sử lâu đời, là do nước ta quá lớn, bộ máy quản lí cồng kềnh, thiếu tổ chức và thiếu hiệu năng; tệ tham những, hối lộ; tất cả những người có quyền, dù ít dù nhiều, đều lợi dụng quyền lực cho mục đích cá nhân.
Nhưng điểm đặc biệt ở đây là bộ máy quan liêu lại được giao nhiệm vụ phân phối tất cả những gì được làm ra trong khuôn khổ của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Vì vậy, ở Liên Xô, bộ máy quan liêu có quyền lực cực kì to lớn, không nước nào trên thế giới có một bộ máy với quyền lực như thế.
Các nhà văn như Chekhov, Gogol, Saltykov-Shchedrin và Bulgakov đã từng lưu ý đến vấn đề bộ máy quan liêu, đã từng chế nhạo nó, và như vậy, cũng là đấu tranh với nó.
Trong nhận thức xã hội, khi nói đến bộ máy quan liêu, người ta nghĩ ngay đến mặt tiêu cực vì cho đến tận bây giờ vẫn còn thấy rất nhiều biểu hiện độc đoán không thể tượng nổi của nó. Nhưng mặt khác, cũng cần nhận thức rõ rằng không có các công chức, viên chức nhà nước có hiểu biết, có tay nghề cao ở mọi vị trí, nhất là nhữbg vị trí quyền lực, thì cũng không thể nào chuyển sang hệ thống quản lí dân chủ được. Tôn trọng cá nhân con người là biện pháp đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu hữu hiệu nhất. Để làm việc đó cần có:
- Luật pháp và tuân thủ pháp luật trên thực tế;
- Dư luận xã hội;
- Trách nhiệm và sự quan tâm của mỗi người dân;
- Các biện pháp kinh tế.
Đây là nhiệm vụ vô cùng phức tạp nhưng cũng vô cùng quan trọng. Chỉ có thể giải quyết được nó nếu có sự đồng lòng. Trong trường hợp ngược lại, chúng ta sẽ không thể loại bỏ được hiện tượng bè phái, độc đoán và thói quan liêu sẽ tiếp tục là lực lượng hủ bại, tiếp tục bóp chết mọi cuộc cải cách. Nước ta đã từng trải qua những kinh nghiệm như thế. Chỉ có thể tránh được nó khi tất cả chúng ta vừa nghiêm khắc với chính mình, vừa đòi hỏi người khác, nghĩa là tất cả phải “đồng lòng”.
Nguồn bản dịch: https://phamnguyentruong.blogspot.com/2016/01/che-o-dan-chu-nha-nuoc-va-xa-hoi-ki-7.html