Tất định luận và tự do lựa chọn - Chương 1: Các ý tưởng chính trị trong thế kỉ 20 (Phần 7 + 8)

Tất định luận và tự do lựa chọn - Chương 1: Các ý tưởng chính trị trong thế kỉ 20 (Phần 7 + 8)

Một trong những hội chứng quyến rũ nhất và gây lo lắng nhất của chiều hướng này phải được tìm thấy trong chính sách về những cơ sở vĩ đại mang tính bác ái của phương Tây. Cả những nhà quan sát châu Âu và Mĩ đều đã phê phán những định chế ấy thường xuyên nhất, rằng những mục đích của các định chế ấy mang tính công lợi quá thô thiển: thay vì tìm cách ủng hộ việc theo đuổi chân lí hay hoạt động sáng tạo như bản thân chúng là vậy (ví dụ như nghiên cứu cơ bản hay hoạt động nghệ thuật) thì họ lại tận tụy nhất với việc cải thiện trực tiếp và ngay lập tức đời sống con người, được nhận thức dưới dạng vật chất thô thiển - an sinh vật thể, giải quyết những vấn đề xã hội và kinh tế ngắn hạn, tạo ra các phương sách phòng bệnh, ngăn ngừa những quan điểm “không đáng mong muốn” về chính trị, và v.v. Thế nhưng tôi thấy những lời buộc tội ấy có vẻ như là quan niệm sai. Những nỗ lực của các cơ quan danh tiếng và hào phóng ấy đang bận rộn trong kiểu hoạt động này, dựa trên một ham muốn đích thực và bất vụ lợi, tôi tin như vậy để phục vụ cho những nhu cầu sâu xa nhất của nhân loại, chứ không chì cho những nhu cầu vật chất đơn thuần. Thế nhưng tất cả những lợi ích ấy đều được nhận thức hầu như hoàn toàn dưới dạng thức mang tính điều trị: những căng thẳng (bên trong hay giữa các cá nhân, hay các nhóm người, hay các quốc gia) cần được giải tỏa, những tổn thương, những xung đột, những nỗi ám ảnh, “chứng sợ hãi” và nỗi lo sợ, những dị thường về tâm thần và tâm lí đủ loại đòi hỏi trợ giúp của các chuyên gia chữa trị: các bác sĩ, các nhà kinh tế học, các nhân viên xã hội, các đội chẩn đoán hay kĩ sư hay các bậc thầy khác về mánh khóe chữa trị bệnh tật và [chữa trị] bối rối - các nguồn lực cá nhân hay tập thể về tài thực hành tinh khôn đủ loại.

Trong mức độ hiện hữu của những khổ đau như thế và những khổ đau ấy có thể được chữa trị bằng các khoa học ứng dụng - những chứng bệnh thân thể và tinh thần đích thực, tình trạng nghèo khó, tình trạng bất bình đẳng xã hội và kinh tế, tình trạng ô nhiễm, nỗi khốn khổ, tình trạng đàn áp, mà con người cùng tiền bạc, các nhà chuyên môn cùng các trang thiết bị có thể chữa khỏi được hay làm cho nhẹ bớt đi - thì tất nhiên những chính sách như vậy hoàn toàn hữu ích và hỗ trợ có tổ chức của những chính sách đó là một tài sản đạo đức quý báu to lớn của một thời đại và một đất nước. Thế nhưng mặt trái của đồng tiền này là khuynh hướng - khó tránh khỏi nhưng thật tai hại - đồng nhất hóa mọi nhu cầu thiết yếu của con người về những thứ có khả năng xử lí bằng những phương pháp ấy: quy giản mọi vấn đề và khát vọng thành những trục trặc mà nhà chuyên môn có thể điều chỉnh đuợc. Một số người tin vào việc ép buộc, một số khác tin vào những phương pháp hòa nhã hơn; thế nhưng quan niệm về những nhu cầu nhân bản trong trạng thái toàn vẹn của chúng như là những nhu cầu của các tù nhân trong nhà tù hay trong trại cải tạo hay trong trường học hay trong bệnh viện, dù được giữ có thật chân thành đến đâu, cũng vẫn là một quan điểm u tối, trá ngụy và về cơ bản là mất phẩm giá, dựa trên phủ nhận bản chất duy lí và phong phú của tất cả mọi người hay đa số con người. Kháng cự khuynh hướng này, dù là trong hình thức đả kích “chủ nghĩa duy vật” kiểu Mĩ (khi nó sinh ra từ một hình thức đích thực, dù có ngây thơ và thường thô thiển, của chủ nghĩa duy tâm vị tha) hay đả kích chủ nghĩa toàn trị hay chủ nghĩa dân tộc cuồng tín (khi nó rất hay bị hiểu lầm như tìm kiếm thực dụng quá trớn cho giải phóng nhân tính), bắt nguồn từ một nhận thức lờ mờ rằng cả hai khuynh hướng ấy - sinh ra từ một cội rễ - là mang tính thù địch đối với phát triển con người như những thực thể sáng tạo và tự định hướng. Nếu con người quả thực là những thực thể như thế [sáng tạo và tự định hướng], thì ngay cả khuynh hướng ấy, mang tính áp đảo như hiện nay ta cảm thấy thế, rốt cuộc cũng sẽ chứng tỏ là không gây tai họa cho tiến bộ nhân bản. Lập luận kiểu vòng tròn này, về thực chất là của tất cả các nhà theo chủ nghĩa duy lí phê phán - như Marx (ít nhất cũng trong thời còn trẻ) và Freud cũng như là Spinoza và Kant, Mill và Tocqueville - nếu có giá trị, sẽ đem lại một cơ sở nào đó cho thái độ lạc quan thận trọng và có thẩm quyền cao về tương lai đạo đức và trí tuệ của loài người.

Tại điểm này ông người phải hoàn toàn có thể cho rằng tình huống là mà tôi mô tả cũng không phải hoàn toàn mới. Chẳng phải là mỗi định chế độc đoán, mỗi phong trào phi lí tính đều cũng đã dính líu với một thứ gì đó thuộc loại này đó hay sao - dẹp đi những hoài nghi một cách giả tạo, mưu toan hoặc là làm mất uy tín của những câu hỏi khó chịu hoặc là giáo dục người ta đừng hỏi những câu hỏi ấy? Chẳng phải đó cũng là thực hành của những giáo hội lớn có tổ chức, thực ra là thực hành của mọi định chế từ nhà nước quốc gia cho đến những tổ chức nhỏ mang tính bè phái, hay sao? Chẳng phải đó cũng là thái độ của bọn thù địch với lí trí từ những sùng bái huyền bí sơ khai cho đến chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hư vô vô chính phủ, chủ nghĩa siêu thực, những sùng bái kiểu Tân-phương Đông của một thế kỉ rưỡi gần đây nhất hay sao? Tại sao thời đại hiện nay lại phải bị lên án đặc biệt vì ưa chuộng một khuynh hướng đặc thù, tạo nên chủ đề chính của những học thuyết xã hội, là cái khuynh hướng đã có từ thời Plato, hay từ thời của giáo phái Assassins thời Trung cổ52, hay từ thời của nhiều tư tưởng và thuyết hòa đồng thần linh của phương Đông?

Thế nhưng có hai khác biệt lớn tách biệt những đặc trưng chính trị của thời đại ngày nay với những ngọn nguồn của chúng trong quá khứ. Thứ nhất là những kẻ phản động hay những người theo chủ nghĩa lãng mạn ở những thời là trước đây, dù họ có thể đã biện bạch thế nào đi nữa về trí sáng suốt cao của quyền uy mang tính định chế hay của lời nói mạc khải so với lí trí cá nhân trong những giây phút cuồng nhiệt quá đáng của họ, thì họ cũng đã không hạ thấp tầm quan trọng của những câu hỏi cần giải đáp. Ngược lại, họ cho rằng việc nhận được lời giải đáp đúng đắn là thật cốt yếu, đến nỗi chỉ có những định chế đã thánh hóa, hay các lãnh tụ đầy nhiệt huyết, hay mạc khải huyền bí, hay ân huệ thần thánh, mới có thể ban cho một lời giải có đủ chiều sâu và tính phổ quát. Chắc chắn một trật tự về tầm quan trọng của những vấn đề là nền tảng cho bất cứ hệ thống xã hội được thiết lập nào - một tôn ti trật tự mà quyền uy của nó tự thân không phải là vấn đề còn phải tra vấn. Hơn thế nữa, sự tăm tối của một số những lời giải đáp được đưa ra trong mỗi thời đại, đều đã che giấu tình trạng thiếu chân lí của chúng hay tính không thích hợp của chúng đối với những câu hỏi mà chúng nhằm giải đáp. Và có lẽ theo truyền thống thì cần có nhiều thói đạo đức giả để bảo đảm cho thành công của chúng. Thế nhưng thói đạo đức giả là rất khác với thói trâng tráo hay thái độ mù quáng. Ngay cả bọn kiểm duyệt ý kiến và những kẻ thù của chân lí cũng cảm thấy buộc phải bày tỏ lòng kính trọng một cách hình thức cho tầm quan trọng sống còn của việc nhận được những lời giải đáp chân thực cho những vấn đề lớn bằng những phương tiện tốt nhất có thể có được. Nếu thực hành của bọn chúng gây ấn tượng sai cho điều này thì ít nhất cũng có một thứ gì đó bị gây ấn tượng sai: những kẻ phản quốc và bọn tà giáo thường giữ được sống động trong kí ức - và uy thế - của những niềm tin mà họ trù tính phản bội lại.

Khác biệt thứ hai ở trong sự kiện là trong quá khứ, những mưu toan như thế nhằm làm che mờ bản chất của vấn đề, phần nhiều liên quan đến những kẻ thù công khai của lí trí và tự do cá nhân. Việc sắp xếp các lực lượng dù sao cũng đã rõ ràng kể từ thời Phục hưng; tiến bộ và phản động, dù cho những từ ngữ này có bị lạm dụng thế nào đi nữa, chúng cũng không phải là những khái niệm trống rỗng. Một bên là những kẻ ủng hộ cho quyền uy, niềm tin không có lí trí, nhìn một cách nghi ngờ hoặc đối địch công khai với việc theo đuổi chân lí không có kiểm soát hay với việc tự do thể hiện những lí tưởng cá nhân. Bên kia là những người ủng hộ cho đòi hỏi tự do, tự thể hiện, dù khác biệt của họ có ra sao đi nữa, họ nhìn vào Voltaire và Lessing53, Mill và Darwin, ngay cả Ibsen nữa, như những nhà tiên tri của họ. Phẩm tính chung của họ - có lẽ là phẩm tính chung duy nhất của họ - là hiến dâng ở mức độ nào đó cho lí tưởng của phong trào Phục hưng và lòng căm ghét tất cả những gì liên quan đến thời trung cổ, dù có chính đáng hay không - tăm tối, đàn áp, đè nén tất cả dị giáo, lòng căm ghét nhục dục và thú vui, căm ghét tự do tư tưởng và tự do thể hiện, và căm ghét tình yêu cái đẹp tự nhiên. Tất nhiên có nhiều người không thể bị xếp hạng một cách đơn giản hay thô thiển đến thế; thế nhưng cho đến tận bây giờ đường ranh giới được vạch ra khá quyết liệt để xác định rõ ràng lập trường của những người chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất của thời đại của họ. Một kết hợp hiến dâng cho các nguyên tắc khoa học với lí thuyết xã hội “ngu dân” có vẻ như hoàn toàn không thể hình dung nổi. Ngày nay khuynh hướng hạn chế và giới hạn để xác định phạm vi của những gì có thể hỏi và những gì không được hỏi, không còn là một chỉ dấu của “bọn phản động” xưa kia. Ngược lại, nó đến một cách mạnh mẽ từ những người thừa kế của những người cấp tiến, những người theo chủ nghĩa duy lí, “những người tiến bộ” của thế kỉ 19, cứ tựa như là từ những hậu duệ của các kẻ thù của họ. Có cuộc truy hại không phải chỉ về khoa học, mà còn bởi khoa học hay ít nhất cũng nhân danh nó; và đây là cơn ác mộng khó mà tiên đoán được bởi những nhà tiên tri theo kiểu như Cassandra54 của bất cứ phe nào.

Người ta thường nói với chúng ta rằng thời nay là thời đại của thói vô liêm sỉ và tuyệt vọng, của sụp đổ các giá trị và tan rã các chuẩn mực xác định cùng các cột mốc của nền văn minh phương Tây. Thế nhưng chuyện này vừa không đúng vừa khó tin. Thế giới ngày nay còn lâu mới cho thấy kết cấu lung lay của một trật tự đang sụp đổ; với những luật lệ cứng nhắc, với tập quán, với những tôn giáo cuồng nhiệt và phi lí tính, nó đang tỏ ra rất hà khắc. Nó còn lâu mới tỏ ra khoan dung, lòng khoan dung bật dậy từ thái độ coi thường đầy hoài nghi đối với các cấm kị cổ xưa, nó đang đối xử với dị giáo như với mối nguy hiểm cao nhất.

Dù ở phương Đông hay phương Tây thì kể từ những thời đại của đức tin, mối hiểm nguy cũng không trở nên lớn hơn. Tuân phục ngày nay được kêu gọi tha thiết hơn là ngày hôm qua; lòng trung thành được kiểm tra nghiêm khắc hơn nhiều; những người hoài nghi, những người theo chủ nghĩa tự do, các cá nhân có sở thích sống riêng tư với những chuẩn mực hành vi theo nội tâm của riêng họ, nếu những người này không quan tâm đến việc đồng nhất mình với một phong trào có tổ chức, họ sẽ là đối tượng của nỗi sợ hãi hay thái độ chế nhạo và là cái đích cho việc truy hại của bất cứ phe nào, họ sẽ bị ghét bỏ nghiệt ngã hay bị khinh miệt bởi tất cả các đảng phái đang dàn trận đánh nhau trong những cuộc chiến ý thức hệ vĩ đại của thời đại hiện nay. Dù cho tình trạng này ít nghiêm trọng hơn trong những xã hội có truyền thống chống lại những cực đoan - ví dụ như nước Anh, hay Đan Mạch hay Thụy Sĩ - nhưng điều đó không làm khác đi mấy cái kiểu mẫu chung. Trong thế giới ngày nay ngu ngốc hay tinh quái cá nhân dễ được tha thứ hơn là thất bại trong việc đồng nhất hóa với môt đảng phái hay với một thái độ được thừa nhận, hay là thất bại trong việc đạt được phê chuẩn cho một danh phận chính trị hay kinh tế hay trí tuệ. Trong những thời kì trước đây, khi không phải chỉ có một quyền uy cai trị cuộc sống nhân sinh, thì một người có thể thoát khỏi áp lực của nhà nước bằng việc tị nạn trong pháo đài của phe đối lập - của một giáo hội có tổ chức hay một cơ quan phong kiến bất đồng chính kiến. Chỉ riêng sự kiện có xung đột giữa các quyền uy đã cho phép một cơ hội có miền đất không người, dù nhỏ hẹp và dễ thay đổi, nhưng không phải hoàn toàn là chưa bao giờ hiện hữu, là nơi các cuộc sống riêng tư vẫn còn có thể sống được một cách bấp bênh, bởi chẳng phe nào dám đi quá xa do sợ làm cho phe kia mạnh lên quá nhiều. Ngày nay chính những đức hạnh của ngay cả một nhà nước gia trưởng có thiện ý nhất, mối lo lắng thực sự của nó làm giảm thiểu cảnh cơ cực và bệnh tật cùng tình trạng bất bình đẳng, xuyên thấu tới mọi xó xỉnh của đời sống vốn có thể còn cần đến công lí và sự hào phóng của nó - chính cái thành công trong các hoạt động bác ái ấy - [chính những đức hạnh ấy] đã thu hẹp lại cái không gian mà ở đó cá nhân có thể phạm những sai lầm ngớ ngẩn, cắt bớt những quyền tự do của cá nhân vì lợi ích (chính cái lợi ích hiện thực) an sinh của anh ta hay tình trạng lành mạnh của anh ta, sức khỏe của anh ta, an toàn của anh ta, tự do của anh ta thoát khỏi thiếu thốn và sợ hãi. Không gian chọn lựa của anh ta trở nên nhỏ đi không phải nhân danh một nguyên tắc đối lập nào đó - như trong những Thời đại Tăm tối hay trong lúc cao trào của các quốc gia - mà là để tạo ra tình huống khiến cho chính cái khả năng có các nguyên tắc đối lập (với tất cả những năng lực vô hạn của chúng tạo nên áp lực tinh thần và những va chạm nguy hiểm và mang tính hủy hoại), được xóa bỏ để tạo thuận lợi cho một cuộc sống được điều chỉnh đơn giản hơn và tốt hơn, cho một niềm tin vững chắc vào trật tự đang hoạt động hữu hiệu, không bị rắc rối bởi xung đột đạo đức gây lo ngại.

Thế nhưng đây không phải là sự phát triển không có trả giá: chúng ta đang ở trong một tình hình xã hội và kinh tế, mà thất bại của việc hài hòa các tác động của tiến bộ kĩ thuật với các sức mạnh của tổ chức chính trị và kinh tế được thừa kế từ giai đoạn trước, thực sự đòi hỏi một biện pháp kiểm soát xã hội để ngăn chặn hỗn loạn và nghèo đói, những thứ có thể là tai hại cho phát triển các khả năng nhân bản không kém so với tuân phục mù quáng. Thật vừa là không hiện thực, vừa là không thể quan niệm được về mặt đạo đức, nếu cho rằng chúng ta phải giao nộp những thành quả xã hội của chúng ta và lập tức trù tính đến khả năng quay trở lại với những bất công, bất bình đẳng và đau khổ vô vọng của thời xưa kia. Việc dự phóng và lo lắng cho thành công của một xã hội được trù tính đặc thù khiến cho các nhà hoạch định phải tìm cách cách li nó khỏi những sức mạnh nguy hiểm do không thể lường trước được, là những sức mạnh có thể thách thức kế hoạch dự phóng; tiến bộ của kĩ năng công nghệ khiến cho điều này là hợp lí và thực cấp bách. Và điều này là một khích lệ mạnh mẽ cho “chế độ tự cung tự cấp” và “chủ nghĩa xã hội ở trong một nước”, dù là được áp đặt bởi những người bảo thủ, hay những người theo Thỏa thuận mới, hay những người theo chủ nghĩa biệt lập, hay những nhà dân chủ xã hội, hay bọn đế quốc, về phần mình, điều này lại sinh ra những rào cản nhân tạo và những hạn chế mỗi lúc một tăng thêm đối với những nguồn lực của bản thân các nhà hoạch định. Trong trường hợp cực đoan, chính sách này dẫn đến việc đàn áp những người bất mãn và siết chặt kỉ luật liên miên, cho đến khi nó tiêu hao ngày càng nhiều thêm thời gian và tài năng của những người vốn dĩ coi việc này chỉ như phương tiện cho tính hiệu quả tối thiểu. Hiện nay nó đã trở thành một mục đích tự thân gớm ghiếc, vì việc thực hiện nó dẫn đến vòng luẩn quẩn đầy tội ác của chuyện đàn áp để sống sót và sống sót chủ yếu để đàn áp. Thành ra việc chữa trị đã trở thành thứ tồi tệ hơn cả căn bệnh và biến dạng thành hình thức của những chính thống giáo dựa trên niềm tin khe khắt của những cá nhân chưa bao giờ biết đến hoặc đã quên đi những gì là vị ngọt của cuộc sống55, như là tự thể hiện mình, như là tính đa dạng vô cùng tận của những con người và những quan hệ giữa họ với nhau, và như là quyền được lựa chọn; việc chữa trị như thế khó mà kéo dài được thêm nữa, nhưng nếu không kháng cự kiên quyết hơn, thì có thể sẽ cứ là như vậy mãi mãi. 

Thế lưỡng nan là không thể giải được về mặt logic: chúng ta không thể hi sinh cả tự do lẫn tổ chức bảo vệ nó, cũng như một chuẩn mực tối thiểu cho an sinh. Cho nên lối thoát phải nằm ở một xộc xệch nào đó về mặt logic, một thỏa hiệp linh hoạt và thậm chí mơ hồ nữa. Mỗi tình huống đòi hỏi một chính sách đặc thù, vì “từ cây gỗ cong queo của loài người, chẳng bao giờ có vật gì thẳng thớm được làm ra cả” như Kant đã có lần nhận xét56. Điều mà thời đại đòi hỏi không phải là tin tưởng nhiều hơn, hay lãnh đạo mạnh mẽ hơn, hay tổ chức khoa học hơn (như chúng ta vẫn thường được nghe như vậy). Đúng hơn là điều ngược lại - bớt đi hăng hái như Chúa cứu thế, nhiều thêm hoài nghi minh triết, nhiều thêm khoan dung đối với những phong cách riêng, thường xuyên hơn các biện pháp tùy theo tình hình (ad hoc) để đạt được những mục tiêu trong một tương lai không thể tiên liệu, nhiều cơ hội hơn cho các cá nhân và các nhóm thiểu số có sở thích và niềm tin ít được số đông hưởng ứng (đúng hay sai không quan trọng), để họ đạt được các mục đích riêng của mình. Điều đòi hỏi là việc áp dụng các nguyên tắc chung phải bớt đi tính máy móc, bớt đi tính cuồng tín, là việc áp dụng những lời giải chung đã được chấp nhận, đã được thử nghiệm một cách khoa học, vào các trường hợp cá nhân chưa được khảo sát, dù có hợp lí và đúng đắn đến đâu, thì cũng phải cẩn trọng hơn và bớt đi tự tin một cách ngạo mạn. Lời nói của tên Talleyrand57 xấu xa quỷ quyệt “Trên hết cả, thưa các ngài, tuyệt nhiên đừng có hãng say”58 có thể có nhiều nhân tính hơn là đòi hỏi tính đồng đều của một Robespierre thật đạo đức và một kìm hãm hữu ích kiểm soát quá nhiều đời sống con người trong một thời đại của kế hoạch hóa xã hội và của kĩ thuật. Chúng ta phải phục tùng quyền uy không phải vì quyền uy không bao giờ sai lầm, mà chỉ vì những lí do mang tính công lợi một cách nghiêm ngặt và công khai, như một biện pháp cần thiết.

Vì chẳng có lòi giải nào được đảm bảo không có sai sót, nên không có sắp xếp nào là tối hậu bất biến cả. Do đó một kết cấu lỏng lẻo và một thái độ khoan dung đối với tình trạng kém hiệu quả tối thiểu, thậm chí một mức độ nuông chiều cho việc nhàn đàm, cho thói hiếu kì vô giá trị, cho việc theo đuổi vô mục đích điều này hay điều kia vốn chưa được cho phép - bản thân “thói lãng phí dễ nhận ra” - nhiều hơn biến đổi cá nhân tự phát (mà rốt cuộc cá nhân phải chịu đầy đủ trách nhiệm vì nó), điều này sẽ luôn luôn đáng giá hơn là một khuôn mẫu được áp đặt chỉn chu nhất và tinh xảo hợp thời trang nhất. Trên hết cả, cần phải hiểu rằng loại vấn đề mà phương pháp này hay phương pháp kia của nền giáo dục, hoặc của hệ thống tổ chức khoa học, tôn giáo hay xã hội đảm bảo sẽ giải quyết được, từ bản thân sự kiện ấy (eo facto), không phải duy nhất là những vấn đề chủ yếu của đời sống nhân bản. Tình trạng bất công, nghèo đói, chế độ nô lệ, tình trạng ngu dốt - những chuyện này có thể được chữa khỏi bằng cải cách hay cách mạng. Thế nhưng người ta không phải sống chỉ để đấu tranh với cái ác. Họ sống bởi những mục tiêu tích cực, mang tính cá nhân hay tập thể, phần nhiều những mục tiêu đa dạng ấy hiếm khi đoán trước được, đôi khi không tương hợp với nhau. Chính là từ mối quan tâm mãnh liệt với những mục tiêu ấy, mang tính tối hậu, không thể so sánh cùng một tiêu chuẩn được, không đảm bảo sẽ thay đổi hay duy trì - chính là thông qua việc theo đuổi mải miết của cá nhân hay tập thể với những mục tiêu ấy, theo đuổi không có kế hoạch và đôi khi hoàn toàn không có đủ thiết bị kĩ thuật thích đáng, thường là không chủ tâm hi vọng vào thành công, lại càng chẳng mấy hi vọng vào việc phê chuẩn của người kiểm tra quyết toán có chức trách, [chính là nhờ vậy] mà những giây phút tốt đẹp nhất đã từng đến với cuộc sống của những cá nhân và dân chúng.
 

Nguồn: Tất định luận và tự do lựa chọn (Liberty, Nhà xuất bản Oxford University Press, 2002) của Isaiah Berlin, do dịch giả Nguyễn Văn Trọng dịch một cách đầy đủ và mạch lạc

Dịch giả:
Nguyễn Văn Trọng