Chủ nghĩa tư bản và tự do: Vai trò của chính phủ đối với giáo dục (Phần 8)
(Tiếp theo Phần 7)
Chương VI: Vai trò của chính phủ đối với giáo dục
Ngày nay, giáo dục chính quy (formal schooling) được chi trả và gần như được quản lý hoàn toàn bởi các cơ quan chính phủ hoặc các tổ chức phi lợi nhuận. Thực trạng này được hình thành một cách dần dần và cho đến nay đã được nhiều người coi là lẽ đương nhiên. Người ta hầu như không còn mảy may quan tâm đến những lý do biện minh cho việc vì sao lại cần phải có cơ chế đặc biệt đối với giáo dục chính quy, ngay cả ở tại các quốc gia có truyền thống tự do về mặt tư tưởng cùng như đối với việc tổ chức xã hội. Hệ quả là: chính phủ ngày càng hay can thiệp một cách tùy tiện, thiếu cân nhắc vào các hoạt động giáo dục.
Chiếu theo các nguyên lý được đề xuất trong chương 2 thì việc có bàn tay can thiệp của chính phủ vào các hoạt động liên quan đến giáo dục có thể được hợp lý hóa dựa trên hai khía cạnh. Khía cạnh đầu tiên là sự tồn tại của “hiệu ứng lân cận” (neighborhood effects), nghĩa là: trong các tình huống mà hành động của một cá nhân gây ra những thiệt hại/tổn thất đáng kể cho một nhóm cá nhân khác, và đồng thời không có biện pháp khả thi để anh ta có thể bù đắp lại phần nào những thiệt hại/tổn thất mà anh ta đã gây ra cho nhóm những cá nhân đó, hoặc trong một số tình huống khác, hành động của một cá nhân tạo ra được những ích lợi đáng kể cho một nhóm cá nhân khác, nhưng lại không có biện pháp khả thi để nhận lại được lợi ích tương xứng từ nhóm cá nhân khác đó, thì đây chính là những tình huống mà ở đó quá trình trao đổi tự nguyện không thể diễn ra. Khía cạnh thứ hai, là những quan ngại, ảnh hưởng bởi tinh thần gia trưởng, đối với trẻ em cũng như đối với những cá nhân vô trách nhiệm khác. Hiệu ứng lân cận và chủ nghĩa gia trưởng kéo theo những hàm ý rất khác nhau đối với (1) chương trình giáo dục phổ thông cho công dân, và (2) chương trình giáo dục hướng nghiệp. Các nền tảng lý luận giải thích cho việc cần có bàn tay can thiệp của chính phủ vào các hoạt động giáo dục, nhìn chung, có sự khác biệt rõ rệt trong hai loại hình đào tạo trên, và cũng biện minh cho nhiều kiểu hoạt động can thiệp rất khác nhau.
Một lưu ý sơ bộ nữa là cần phân biệt rạch ròi giữa “giáo dục chính quy" (schooling) và “giáo dục” (education). Không phải cứ đến trường theo học chính quy là có giáo dục, và cũng không phải tất cả hoạt động giáo dục là cứ phải đến trường học chính quy. Chủ đề thích hợp được quan tâm ở đây chính là giáo dục. Còn hành động can thiệp của chính phủ chủ yếu diễn ra đối với hoạt động giáo dục chính quy.
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG CHO CÔNG DÂN
Một xã hội ổn định và dân chủ không thể tồn tại trong điều kiện phần đông dân số bị thiếu khuyết nền tảng căn bản và tối thiểu về khả năng đọc, viết, thiếu kiến thức, hiểu biết tối thiểu; điều này cũng đúng nếu không tồn tại các chuẩn mực xã hội căn bản. Giáo dục có thể cải thiện cả hai điều kiện trên. Kết quả là, không chỉ bậc làm cha làm mẹ, và đứa trẻ được hưởng lợi từ một nền giáo dục tốt, mà các thành viên khác trong xã hội cũng được hưởng lợi theo. Giáo dục con tôi góp phần vào phúc lợi của bạn, bằng cách thúc đẩy một xã hội dân chủ và ổn định. Sẽ không khả thi để xác định các cá nhân (hoặc gia đình) cụ thể được hưởng lợi là ai, và cũng là bất khả thi để tính phí cho các dịch vụ cung cấp. Do đó tổn tại một "hiệu ứng lân cận” đáng kể ở đây.
Những loại can thiệp nào của chính quyền có thể biện minh bằng hiệu ứng lân cận? Ví dụ rõ ràng nhất là quy định yêu cầu mỗi đứa trẻ phải theo học chính quy ở mức độ tối thiểu thông qua một hình thức nhất định. Một yêu cầu như vậy có thể khiến các bậc phụ huynh tuân thủ mà không cần thêm sự can thiệp của chính phủ, tương tự như chủ sở hữu của tòa nhà, hay thường xuyên hơn là chủ của xe ô tô, bị yêu cầu phải tuân thủ các quy chuẩn để bảo vệ sự an toàn của những người khác. Tuy nhiên, có một sự khác biệt giữa hai trường hợp. Các cá nhân nếu không thể thanh toán chi phí đáp ứng các tiêu chuẩn cần thiết cho các tòa nhà hoặc xe cộ thường có thể gạt bỏ chính tài sản đó bằng cách bán nó đi. Yêu cầu do đó thường được thực thi mà không cần chính quyền trợ cấp. Sự chia tách một đứa trẻ khỏi cha mẹ chúng - những người không thể trả chi phí tối thiểu để cho đứa trẻ đến trường rõ ràng là không nhất quán với niềm tin của chúng ta về gia đình như là đơn vị xã hội cơ bản cũng như niềm tin của chúng ta về tự do cá nhân. Hơn nữa, sự chia tách đó rất có khả năng sẽ khiến đứa trẻ bị tước đi việc được giáo dục thành công dân trong một xã hội tự do.
Nếu như gánh nặng tài chính đối với yêu cầu giáo dục chính quy có thể được đáp ứng bởi phần lớn các gia đình trong cộng đồng thì việc đòi hỏi các vị phụ huynh trang trải chi phí trực tiếp sẽ vừa khả thi, vừa đáng mong đợi. Với các trường hợp khó khăn đặc biệt, có thể xử lý nhờ các quy định trợ cấp đặc biệt cho các đối tượng này. Ở Hoa Kỳ ngày nay, có nhiều khu vực có khả năng đáp ứng được những điều kiện này. Trong các khu vực này, việc yêu cầu các phụ huynh trực tiếp cáng đáng chi phí là hoàn toàn thỏa đáng. Điều này sẽ loại bỏ bộ máy chính quyền mà hiện giờ đang chịu trách nhiệm thu tiền thuế từ cư dân trong toàn bộ cuộc đời họ và sau đó trả lại hầu như là cho chính những người đấy trong khoảng thời gian khi con cái họ đi học. Nó làm giảm bớt nguyên cớ chính quyền cần quản lý trường học, một vấn đề ta sẽ thảo luận phía dưới. Khả năng cao là các gói trợ cấp cho các trường học chi tiêu cũng sẽ được cắt giảm bởi vì nhu cầu đối với các khoản trợ cấp này đã giảm cùng với sự gia tăng của mức thu nhập chung. Nếu như bây giờ, chính quyền bao tiêu toàn bộ hoặc phần lớn chi phí cho việc giáo dục chính quy thì sự tăng lên của thu nhập chỉ đơn giản là làm tăng quy mô luân chuyển giữa các quỹ thông qua cơ chế thuế, và khiến cho vai trò của chính quyền ngày càng mở rộng. Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, áp đặt các chi phí lên các bậc phụ huynh sẽ có xu hướng cân bằng chi phí xã hội và chi phí tư nhân của việc có con và do đó thúc đẩy sự phân phối tốt hơn về quy mô của các gia đình.1
Những khác biệt giữa các gia đình về nguồn lực và số con cộng với việc áp dụng tiêu chuẩn cho việc giáo dục chính quy, vốn dĩ gây ra những chi phí khá lớn, khiến cho một chính sách như vậy là khó khả thi tại nhiều nơi ở Hoa Kỳ. Ở những nơi đó, và cả những nơi mà chính sách có thể khả thi, chính quyền đều đảm nhận trang trải chi phí tài chính cho việc giáo dục chính quy. Chính quyền đã thanh toán không những số tiền cho việc giáo dục chính quy bắt buộc ở mức tối thiểu với mọi người, mà còn cho cả việc giáo dục chính quy mở rộng ở những bậc cao hơn - loại hình mở ra đối với giới trẻ nhưng không bắt buộc. Một lý giải cho việc chính quyền thanh toán cho cả hai hoạt động đó là bởi vấn đề "hiệu ứng lân cận" đã thảo luận ở trên. Các khoản phí được chi trả vì đây là cách thức khả dĩ duy nhất để thực thi giáo dục tối thiểu bắt buộc. Việc giáo dục chính quy ở bậc cao hơn cũng được tài trợ vì những người khác cũng được hưởng lợi từ những người có năng lực và có hứng thú với việc học hành, vì đây là cách tạo ra tầng lớp lãnh đạo chính trị và xã hội tốt hơn. Lợi ích đạt được từ các biện pháp này phải được cân bằng với các chi phí, và có thể có nhiều khác biệt thực sự về việc đánh giá quy mô trợ cấp nên ở mức độ như thế nào thì hợp lý. Tuy nhiên, hầu hết chúng ta có lẽ đều đi đến kết luận rằng lợi ích thu được là đủ lớn để biện minh cho một số trợ cấp của nhà nước.
Những căn cứ này chỉ biện minh được trợ cấp nhà nước cho một số hình thức giáo dục chính quy nhất định. Chúng không thể biện minh cho trợ cấp đào tạo nghề thuần túy - hình thức làm tăng năng suất kinh tế của sinh viên nhưng không đào tạo cho họ tư cách công dân hoặc năng lực lãnh đạo. Để vẽ một đường phân định rõ ràng giữa hai hình thức giáo dục chính quy đó là cực kì khó khăn. Đa phần giáo dục phổ thông làm tăng thêm các giá trị kinh tế của học viên - thực ra thì chỉ có ở trong thời hiện đại và tại một vài quốc gia, việc biết đọc, biết viết không còn có giá trị thị trường gì nữa cả. Và giáo dục đào tạo nghề thì mở rộng triển vọng của học viên. Tuy nhiên, sự phân biệt vẫn có ý nghĩa. Trợ cấp cho việc đào tạo bác sĩ thú y, thẩm mỹ viện, nha sĩ, và một loạt các loại ngành nghề chuyên môn khác như đang được thực hiện rộng rãi ở Hoa Kỳ trong các tổ chức giáo dục được chính phủ hỗ trợ, không thể được biện minh bằng lý lẽ tương tự như việc trợ cấp cho các trường tiểu học hoặc, ở bậc học cao hơn, chẳng hạn cho các trường nghệ thuật khai phóng, cho dù nó có thể được biện minh trên cơ sở hoàn toàn khác, và điều này sẽ được thảo luận ở phần sau trong chương này.
Lập luận định tính về vấn đề “hiệu ứng lân cận" tất nhiên không xác định được loại hình giáo dục chính quy cụ thể nào nên được trợ cấp hoặc chúng nên được trợ cấp bao nhiêu. Lợi ích xã hội thu được có lẽ là lớn nhất đối với việc giáo dục chính quy ở bậc học thấp nhất, nơi mà có sự đồng thuận dễ dàng nhất về nội dung chương trình, và giảm liên tục khi bậc học tăng lên. Thậm chí ngay cả nhận định này cũng không được coi là hiển nhiên. Nhiều chính phủ đã trợ cấp cho các trường đại học tổng hợp từ rất lâu trước khi họ trợ cấp các trường học cấp thấp hơn. Hình thức giáo dục nào mang lại lợi ích lớn nhất cho xã hội và cần phải sử dụng bao nhiêu nguồn lực khan hiếm của cộng đồng để tài trợ cho chúng là những vấn đề phải được quyết định bởi sự phán xét của cộng đồng thể hiện thông qua các kênh chính trị được chấp nhận. Mục đích của phân tích này không phải là để quyết định những câu hỏi trên thay cho cộng đồng mà là để làm rõ các vấn đề liên quan trong việc đưa ra lựa chọn, bất kể điều đó phù hợp với việc quyết định chọn lựa dựa trên cơ sở lợi ích cộng đồng hơn là cơ sở lợi ích cá nhân.
Như chúng ta đã thấy, có thể dựa vào "hiệu ứng lân cận” của giáo dục chính quy để biện minh cho cả hai cấp độ: yêu cầu giáo dục chính quy ở mức tối thiểu và việc tài trợ cho hình thức giáo dục này bởi nhà nước. Nhưng ở cấp độ thứ ba, cụ thể là sự quản lý của chính quyền đối với các tổ chức giáo dục, mà thực chất là sự "quốc hữu hóa" như chúng ta chứng kiến trong phần lớn "ngành công nghiệp giáo dục", rất khó để biện minh trên cơ sở đó, hoặc trên bất cứ cơ sở nào khác mà tôi biết cho đến nay. Mong muốn quốc hữu hóa này ít khi gặp phải sự chống đối công khai. Các chính phủ đóng vai trò chính yếu trong việc tài trợ cho giáo dục chính quy thông qua việc thanh toán trực tiếp các chi phí vận hành của các tổ chức giáo dục. Vì vậy, để trợ cấp cho hoạt động giáo dục chính quy thì quốc hữu hóa dường như là bước đi bắt buộc. Tuy nhiên, có thể dễ dàng tách được hai cấp độ này ra khỏi nhau. Các chính phủ vẫn có thể đảm bảo được yêu cầu giáo dục chính quy ở mức độ tối thiểu bằng cách đưa cho các phụ huynh những voucher có thể nhận lại được một số tiền tối đa quy định cho mỗi đứa trẻ mỗi năm để sử dụng các dịch vụ giáo dục được “phê duyệt”. Sau đó cha mẹ sẽ được tự do sử dụng số tiền này và bổ sung thêm bất kỳ khoản nào mà họ muốn để mua các dịch vụ giáo dục từ các tổ chức giáo dục được "công nhận" theo lựa chọn của riêng họ. Các dịch vụ giáo dục có thể được cung ứng bởi doanh nghiệp tư nhân hoạt động vì lợi nhuận, hoặc của các tổ chức phi lợi nhuận. Vai trò của chính phủ sẽ được giới hạn vào việc bảo đảm rằng các trường học phải đạt được những tiêu chuẩn tối thiểu nhất định, chẳng hạn như bao gồm một số nội dung tối thiểu chung trong chương trình của họ, cũng tựa như việc thanh kiểm tra nhà hàng hiện nay để đảm bảo rằng các cơ sở này duy trì các tiêu chuẩn vệ sinh tối thiểu. Một ví dụ tuyệt vời của một chương trình loại này là chương trình giáo dục Hoa Kỳ cho cựu chiến binh sau Thế chiến II. Mỗi cựu chiến binh đủ điều kiện được nhận một số tiền tối đa cho mỗi năm và có thể chi tiêu khoản tiền này tại bất kỳ tổ chức giáo dục nào tùy họ lựa chọn, miễn là chúng đáp ứng tiêu chuẩn tối thiểu nhất định. Một ví dụ có quy mô hẹp hơn là về một quy định ở Anh, theo đó chính quyền địa phương trả học phí cho một số sinh viên theo học các trường ngoài công lập. Một ví dụ khác là một thiết chế ở Pháp theo đó nhà nước chi trả một phần chi phí cho sinh viên theo học các trường ngoài công lập.
Một luận giải cho việc quốc hữu hóa các trường học dựa trên "hiệu ứng lân cận" là: không có giải pháp thay thế khả dĩ nào trong việc cung cấp các giá trị cốt lõi chung, vốn được coi là điều kiện tiên quyết cho sự ổn định của xã hội. Việc áp dụng các tiêu chuẩn tối thiểu đối với các trường học tư nhân như đề xuất ở trên có thể không đủ để đạt được mục tiêu này. Vấn đề này có thể được minh họa cụ thể qua các trường vận hành bởi các nhóm tôn giáo khác nhau. Những trường như thế, có thể thấy rằng, sẽ tuyên truyền cho những hệ giá trị không phù hợp với nhau và không phù hợp với các trường học phi tôn giáo; và nếu theo cách này, các trường học sẽ trở thành nơi chia rẽ thay vì là nơi tạo ra sự thống nhất.
Đi đến tận cùng của lý lẽ này đòi hỏi không những các trường học phải do chính phủ quản lý, mà còn buộc mọi học sinh phải đi học ở các trường đó. Như vậy, các thiết chế hiện tại ở Hoa Kỳ và hầu hết các nước phương Tây khác đều là nửa mùa. Các trường do chính phủ quản lý tuy đã có nhưng không bắt buộc. Những mối liên hệ giữa tài trợ cho giáo dục chính quy và việc quản lý hoạt động này đặt các trường tư vào thế bất lợi: chúng hầu như không nhận được tài trợ của chính phủ cho hoạt động giáo dục chính quy - tình trạng này là nguồn gốc của vô khối tranh cãi chính trị, đặc biệt là ở Pháp và hiện nay là tại Hoa Kỳ. Việc loại bỏ các bất lợi này có thể, và bị e sợ là, sẽ tiếp thêm sức mạnh cho các trường học tôn giáo và do đó làm cho việc đạt được những giá trị cốt lõi chung thậm chí còn khó khăn hơn.
Bất kể lý lẽ trên có sức thuyết phục như thế nào thì điều này không có nghĩa là nó đúng hay việc phi quốc hữu hóa hoạt động giáo dục chính quy sẽ mang lại những tác động như đề xuất. Xét trên góc độ nguyên lý, lý lẽ này mâu thuẫn với chính việc bảo tồn tự do. Tìm cách vẽ một đường ranh giữa một bên là việc cung cấp các giá trị xã hội chung cần thiết cho một xã hội ổn định và bên kia là sự truyền bá tự do đối với tư tưởng và niềm tin thì đó sẽ là một đường ranh mơ hồ: nói thì dễ dàng hơn làm rất nhiều.
Về hiệu ứng tác động, phi quốc hữu hóa hoạt động giáo dục chính quy sẽ mở rộng phạm vi lựa chọn cho phụ huynh. Nếu như hiện nay, các bậc cha mẹ có thể gửi con cái đến các trường công lập mà không phải trả thêm chi phí đặc biệt, thì rất ít người có thể hoặc sẵn sàng gửi chúng đến những trường khác, trừ khi các trường đó cũng được trợ cấp. Các trường tôn giáo rơi vào thế bất lợi khi không nhận được bất cứ ngân sách công nào dành cho hoạt động, nhưng chúng có lợi thế bù đắp lại do được điều hành bởi các tổ chức sẵn sàng trợ cấp cho mình và có thể đi huy động tiền để làm vậy. Có rất ít các nguồn trợ cấp khác cho các trường học tư nhân. Nếu chi tiêu công hiện tại cho hoạt động giáo dục chính quy có khả năng chuyển tới tay cha mẹ học sinh mà không phân biệt nơi họ sẽ gửi con cái đến học, thì rất nhiều trường học sẽ mọc lên để đáp ứng nhu cầu. Các bậc phụ huynh có thể bày tỏ quan điểm của họ về các cơ sở giáo dục một cách trực tiếp bằng cách rút con cái của họ từ trường này và gửi chúng đến chỗ khác; hành động kiểu này khả thi hơn rất nhiều so với hiện tại. Về cơ bản, hiện nay họ chỉ có thể thực hiện điều này với chi phí lớn đáng kể - bằng cách gửi con đến một trường tư thục hoặc thay đổi nơi cư trú. Đối với những người còn lại, họ chỉ có thể bày tỏ quan điểm về giáo dục thông qua các kênh chính trị cồng kềnh. Có lẽ có thể tạo ra được không gian tự do lựa chọn trường lớn hơn ở trong hệ thống do chính phủ quản lý, nhưng sẽ rất khó để thực hiện quyền tự do hữu hiệu nếu xét tới nghĩa vụ cung cấp cho mọi đứa trẻ ở một nơi. Ở đây, cũng như trong các lĩnh vực khác, doanh nghiệp cạnh tranh sẽ đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng hiệu quả hơn nhiều so với các doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp hoạt động để phục vụ các mục đích khác. Kết quả cuối cùng của chính sách cạnh tranh giáo dục vì vậy sẽ là các trường học do các cơ sở tôn giáo quản lý sẽ giảm vai trò ảnh hưởng thay vì tăng thêm.
Một yếu tố liên quan có tác động theo cùng chiều hướng, đó là sự miễn cưỡng dễ hiểu của các bậc phụ huynh - những người gửi con đến trường học tôn giáo nhưng phải đóng thuế để tài trợ cho các trường công lập có chi tiêu cao hơn. Kết quả là, tại những khu vực mà các trường học tôn giáo giữ vị trí quan trọng thì thường gặp những khó khăn lớn trong việc gây quỹ cho các trường công lập. Trong chừng mực chất lượng liên quan đến chi tiêu, thì đến mức độ nào đó chắc chắn là các trường công lập có xu hướng có chất lượng thấp hơn tại những khu vực đó và do đó các trường học tôn giáo tương đối hấp dẫn hơn.
Một trường hợp đặc biệt của lý lẽ ủng hộ quan điểm chính phủ quản lý trường học là: vì giáo dục là phương thức rất cần thiết để hòa hợp mọi người nhưng các trường tư thục thường lại có khuynh hướng làm cho sự phân biệt giai cấp trầm trọng thêm. Nếu được tự do đáng kể trong việc lựa chọn nơi con cái học, những phụ huynh cùng một giai tầng sẽ hội tụ lại với nhau và ngăn cản sự hòa đồng lành mạnh của trẻ em xuất thân từ những nguồn gốc khác nhau nhiều. Bất kể là lý lẽ này về mặt nguyên lý có giá trị hay không thì nó cũng chẳng có chút gì đảm bảo rằng kết quả sẽ theo đúng như vậy. Trong tình trạng hiện tại, sự phân tầng các khu dân cư đã ngăn cản mạnh mẽ sự hòa đồng của trẻ có xuất thân cách biệt. Thêm vào đó, các bậc cha mẹ hiện tại không hề bị ngăn cản khỏi việc cho con em học trường tư. Nhưng nếu gạt các trường học tôn giáo sang một bên, hiện chỉ có một số lượng nhỏ những người thuộc tầng lớp trên có điều kiện làm như vậy, và do đó gây ra sự phân tầng xã hội còn trầm trọng hơn nữa.
Thật vậy, đối với tôi, lập luận này gợi ý chiều hướng chính sách hoàn toàn ngược lại - theo hướng phi quốc hữu hóa trường học. Hãy tự hỏi đâu là điểm bất lợi nhất đối với cư dân của một khu có thu nhập thấp, và hãy khoan nói tới khu phố của người da đen trong một thành phố lớn. Nếu theo bạn một chiếc ô tô mới là quan trọng, bạn có thể, bằng cách tiết kiệm, tích lũy đủ tiền để mua chiếc xe giống hệt như xe của cư dân ở một vùng ngoại ô có thu nhập cao. Để làm như vậy, bạn không cần phải di chuyển đến vùng ngoại ô đó. Ngược lại, bạn còn có thể tiết kiệm được thêm tiền nhờ việc tiếp tục cư trú theo cách bình dân hơn trên khu nhà ở của mình. Và điều này cũng tương tự đối với quần áo, hay đồ nội thất, hoặc sách vở, hoặc những cái khác. Nhưng hãy xem một gia đình nghèo ở khu ổ chuột có một đứa con có năng khiếu và giả như họ đặt giá trị cao vào giáo dục của con cái và họ sẵn sàng chắt bóp và tiết kiệm cho mục đích này. Ngoại trừ trường hợp họ nhận được những hỗ trợ đặc biệt hoặc học bổng của một trong rất ít các trường tư thục còn không thì các gia đình đó sẽ rơi vào tình thế vô cùng khó khăn. Các trường học công lập tốt thường ở trong các khu dân cư có thu nhập cao. Các gia đình có thể sẵn sàng chi thêm một khoản phụ nào đó ngoài thuế họ trả để để có được giáo dục tốt hơn cho con cái. Nhưng họ khó có thể đủ khả năng để cùng lúc chuyển nhà đến những khu dân cư đắt đỏ.
Tôi cho rằng quan điểm của chúng ta đối với những khía cạnh trên vẫn còn chịu ảnh hưởng bởi lối suy nghĩ phù hợp với trường hợp một thị trấn nhỏ, nơi chỉ có một ngôi trường cho cả người giàu lẫn người nghèo. Trong trường hợp như vậy, các trường công lập có thể thực sự mang lại cơ hội học tập công bằng cho các tầng lớp dân cư. Nhưng với sự mở rộng của khu vực đô thị và ngoại thành, tình hình đã thay đổi mạnh mẽ. Hệ thống trường học hiện tại của chúng ta hầu như không còn mang lại cơ hội công bằng nữa, mà rất có thể là đang ngược lại. Nó gây ra nhiều khó khăn hơn cho những thiểu số có năng khiếu đặc biệt - và đó lại chính là nguồn hy vọng của tương lai – mong muốn vượt lên tình trạng xuất thân nghèo khổ của mình.
Một lý giải khác cho quốc hữu hóa giáo dục chính quy là vấn đề "độc quyền do yếu tố kỹ thuật". Trong các cộng đồng nhỏ và khu vực nông thôn, số trẻ em có thể là quá nhỏ để hình thành nhiều hơn một trường học với kích thước tương đương, vì vậy không thể dựa vào sự cạnh tranh để bảo vệ lợi ích của phụ huynh và trẻ em. Giống như trong các trường hợp khác của độc quyền do yếu tố kỹ thuật, giải pháp là lựa chọn một trong các phương án thay thế: độc quyền tư nhân không giới hạn, độc quyền tư nhân có sự kiểm soát của nhà nước, và tổ chức công lập – đó là lựa chọn cái tốt nhất trong những cái xấu. Tuy nhiên, lập luận này, cho dù rõ ràng là hợp lý và có ý nghĩa, đã bị yếu đi đáng kể trong những thập kỷ gần đây bởi những cải tiến trong hệ thống giao thông vận tải và sự gia tăng mật độ dân số trong cộng đồng đô thị.
Phương án tổ chức mà có lẽ là gần sát nhất để thỏa mãn những suy xét trên - ít nhất là đối với giáo dục tiểu học và trung học - là mô hình kết hợp cả trường công lập lẫn tư thục. Các bậc phụ huynh, những người lựa chọn cho con học ở trường tư, sẽ được trả một khoản tiền tương đương với chi phí ước tính của việc gửi con đến học trường công lập, với điều kiện số tiền này phải được chi cho giáo dục tại một trường đã được phê duyệt. Mô hình này sẽ giải quyết được những vấn đề đặc trưng của tình trạng “độc quyền do yếu tố kĩ thuật”. Nó cũng sẽ giải tỏa khiếu nại của các phụ huynh rằng nếu họ gửi con đến trường tư thục không được trợ cấp thì hóa ra họ phải trả hai lần tiền cho giáo dục - một lần trong các loại thuế chung và một lần trả trực tiếp. Nó sẽ cho phép cạnh tranh để phát triển. Sự phát triển và cải thiện tại tất cả các trường do đó sẽ được khuyến khích. Cạnh tranh sẽ thúc đẩy mạnh mẽ tính đa dạng lành mạnh của các trường học. Nó cũng sẽ giúp hệ thống trường học trở nên linh hoạt hơn. Một lợi ích không nhỏ của mô hình này là sẽ khiến tiền lương của giáo viên thay đổi tương quan theo thị trường. Do đó, nó sẽ cung cấp cho cơ quan công quyền một tiêu chuẩn độc lập dựa vào đó để đánh giá ngân quỹ tiền lương và có những điều chỉnh nhanh hơn trước những thay đổi về cung và cầu.
Để đáp ứng nhu cầu đến trường ngày một tăng, rất nhiều người cho rằng cần phải có nhiều tiền để xây dựng thêm cơ sở vật chất và trả lương cao cho giáo viên nhằm có được đội ngũ giáo chức giỏi. Đây có vẻ là một chuẩn đoán sai lầm. Số tiền chi cho giáo dục chính quy đã tăng với một tốc độ cao bất thường, nhanh hơn quá nhiều so với tốc độ tăng tổng thu nhập của chúng ta. Lương giáo viên đã tăng lên nhanh hơn nhiều so với thu nhập ở các ngành nghề tương đương. Vấn đề chủ yếu không phải là chúng ta đang dành quá ít tiền –mặc dù cũng có thể thế - mà là chúng ta đang nhận lại rất ít cho mỗi đồng chi tiêu. Có lẽ số tiền chi để xây dựng những công trình hạ tầng kì vĩ và cơ sở vật chất sang trọng tại nhiều trường học đang được phân loại vào nhóm chi tiêu cho giáo dục chính quy. Nhưng thật khó có thể chấp nhận việc các khoản chi này tương đương như các khoản chi tiêu cho giáo dục. Và điều này cũng hiển nhiên tương tự đối với các khóa học như làm giỏ thủ công, khiêu vũ đại chúng, và rất nhiều các môn học đặc biệt khác mà chỉ tác dụng mang lại lợi ích cho những người làm công tác giáo dục. Một lần nữa tôi muốn nhấn mạnh rằng nếu các bậc phụ huynh dùng tiền riêng của mình để chi tiêu cho những khóa học kiểu như thế thì không có ai phản đối. Đó là việc của riêng họ. Điều mà chúng ta cần phản đối ở đây là việc sử dụng tiền thu được từ thuế của các phụ huynh hoặc từ những người khác cho những mục đích như vậy. “Hiệu ứng lân cận” nào có thể biện minh cho việc sử dụng tiền thuế như thế?
Nguyên nhân chính yếu của việc sử dụng tiền công theo kiểu như vậy là do hệ thống hiện tại đang kết hợp sự quản lý các trường với việc tài trợ. Các vị phụ huynh, những người muốn nhìn thấy tiền bạc được sử dụng sao cho có nhiều giáo viên giỏi và sách vở chất lượng tốt hơn thay vì là dành cho các huấn luyện viên và những hành lang lộng lẫy, lại không có cách nào để thể hiện mong muốn của mình, trừ phi phải thuyết phục số đông cùng thay đổi để tạo ra sức mạnh chung. Đây là một trường hợp đặc biệt của nguyên lý chung theo đó thị trường cho phép mỗi cá nhân thỏa mãn mong muốn của người đó – một hình thức đại diện theo tỷ lệ hiệu quả; trong khi đó tiến trình chính trị sẽ áp đặt sự tuân thủ. Bổ sung thêm, việc các phụ huynh muốn dành thêm một số tiền vào việc học của con mình cũng bị hạn chế đáng kể. Họ không thể lấy lại số tiền hiện đang được trả cho việc học tập của con em mình, rồi bỏ thêm tiền vào và chuyển chúng đến một trường học khác với chi phí cao hơn tương ứng. Nếu họ chuyển chỗ học cho con cái, họ sẽ phải trả toàn bộ chi phí chứ không chỉ đơn giản là chi phí phụ thêm. Họ chỉ có thể chi thêm tiền một cách dễ dàng vào các hoạt động ngoại khóa – như khóa học khiêu vũ, âm nhạc, v.v. Do việc các cá nhân muốn chi tiêu nhiều hơn vào giáo dục chính quy bị ngăn cản, tạo ra áp lực đòi hỏi phải tăng chi tiêu hơn nữa cho giáo dục, dẫn đến việc chi tiêu công bị phân bổ nhiều hơn vào các hạng mục có mối liên hệ mờ nhạt với những lý lẽ cơ bản biện minh cho sự can thiệp của chính phủ vào giáo dục chính quy.
Hàm ý của phân tích này là: nếu áp dụng cách tổ chức như đề xuất ở trên thì chi tiêu công cho giáo dục chính quy sẽ ít hơn, nhưng tổng chi tiêu cho giáo dục lại cao hơn. Mô hình này cho phép các bậc phụ huynh mua những gì họ muốn một cách có hiệu quả hơn và do đó khiến họ chi tiêu nhiều hơn so với họ đang trực tiếp và gián tiếp thực hiện thông qua thuế ở thời điểm hiện tại. Nó có thể giúp các bậc cha mẹ khỏi thất vọng khi phải chi nhiều tiền hơn cho hoạt động giáo dục chính quy trong khi vừa phải quan tâm tới tính hợp lý của việc sử dụng số tiền đó và vừa cảm thấy miễn cưỡng, sự miễn cưỡng dễ hiểu của một phần những người đang không có con đi học, đặc biệt là những người trong tương lai cũng sẽ không có, nhưng bản thân lại phải chịu các loại thuế cao hơn cho các mục đích thường là khác xa so với mục đích giáo dục theo cách mà họ hiểu về thuật ngữ này.2
Xét tới khía cạnh tiền lương của giáo viên, vấn đề chính không phải là lương quá thấp so với mức trung bình – nó cũng có thể quá cao so với mức trung bình – mà vấn đề chính ở đây là bởi chúng quá đồng nhất và cứng nhắc. Giáo viên kém thì được trả cao còn giáo viên giỏi thì nhận được thấp. Thang tiền lương có xu hướng đồng nhất và được xác định chủ yếu bởi thâm niên, bằng cấp, và các chứng chỉ giảng dạy hơn là bởi tài đức. Điều này chủ yếu cũng bởi kết quả của hệ thống quản lý hiện tại của chính quyền tại các trường học và trở nên nghiêm trọng hơn khi các đơn vị giáo dục công lập thuộc quyền kiểm soát của chính quyền ngày càng phình to. Thật vậy, thực tế này là lý do chính lý giải tại sao các tổ chức giáo dục hướng nghiệp lại nhiệt liệt ủng hộ việc mở rộng các đơn vị giáo dục công lập - từ các đơn vị thuộc cấp quản lý địa phương cho đến cấp bang, từ cấp bang cho đến cấp chính quyền liên bang. Trong bất kỳ cơ quan công vụ thiết yếu, quan liêu nào, việc áp dụng hệ thống tiền lương theo thang bậc tiêu chuẩn gần như không thể tránh khỏi: bởi vì hầu như là bất khả thi thể để thúc đẩy năng lực cạnh tranh thông qua việc tạo ra những mức tiền lương chênh lệch lớn căn cứ theo tài đức. Các nhà giáo dục, tức là bản thân các giáo viên, nắm quyền kiểm soát chính. Phụ huynh và cộng đồng địa phương chỉ tham gia đôi chút vào sự kiểm soát. Trong bất kỳ lĩnh vực nào, cho dù đó là nghề mộc hoặc nghề hàn hoặc nghề giảng dạy, phần lớn người lao động sẽ ủng hộ các thang bậc lương tiêu chuẩn và phản đối sự phân biệt về thành tích, với lý do hiển nhiên là vì những người có tài năng đặc biệt thì luôn luôn là số ít. Đây là một trường hợp đặc biệt thể hiện xu hướng chung khi người ta tìm kiếm sự thông đồng để ấn định giá, cho dù là thông qua các công đoàn hay các công ty độc quyền ngành. Nhưng những thỏa thuận thông đồng về cơ bản sẽ bị cạnh tranh phá hủy trừ khi chính phủ bảo vệ chúng, hoặc tạo ra những khuyến khích đáng kể cho chúng.
Nếu ai đó chủ định bày ra một hệ thống tuyển dụng và chi trả cho các giáo viên nhằm mục đích làm thui chột trí tưởng tượng, sự táo bạo và tính tự tin, để thu lấy sự tối dạ, xoàng xĩnh và không có tiền đồ, thì anh ta khó có thể làm gì tốt hơn ngoài việc bắt chước hệ thống yêu cầu phải có các chứng chỉ giảng dạy và áp đặt các thang bậc tiền lương tiêu chuẩn mà ngày nay đã trở thành phổ biến trong những thành phố và tiểu bang lớn. Thật đáng ngạc nhiên là việc giảng dạy tại các trường tiểu học và trung học cơ sở hiện nay vẫn có được chất lượng cao trong những điều kiện như thế. Hệ thống thay thế sẽ giải quyết các vấn đề này và cho phép cạnh tranh hiệu quả thông qua việc tưởng thưởng cho tài đức và thu hút năng lực giảng dạy.
Tại sao can thiệp của chính phủ vào hoạt động giáo dục chính quy ở Mỹ lại liên tục mở rộng trong suốt chặng đường qua? Tôi không có đủ kiến thức chuyên sâu về lịch sử hệ thống giáo dục để đưa ra câu trả lời dứt khoát. Tuy nhiên, để hỗ trợ việc đưa ra một số nhận định nhằm đề xuất các chính sách xã hội thay thế phù hợp, một số phỏng đoán sẽ được vạch ra. Tôi không dám chắc giải pháp mà hiện tại tôi đang đề xuất có đáng mong muốn trong thực tế cách đây một thế kỷ hay không. Trước khi hệ thống giao thông vận tải phát triển rộng rãi, lý lẽ dựa trên nhân tố “độc quyền kĩ thuật” có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn cả. Một vấn đề chính yếu khác cũng quan trọng không kém, đó là ở Hoa Kỳ trong thế kỷ mười chín và đầu thế kỷ hai mươi, mục tiêu không phải là thúc đẩy sự đa dạng mà là tạo ra những giá trị chung cốt lõi, vốn dĩ rất cần thiết cho một xã hội ổn định. Dòng người nhập cư từ khắp nơi trên thế giới đã tràn ngập nước Mỹ, họ nói những ngôn ngữ khác nhau và có những phong tục tập quán đa dạng. Cái “nồi thập cẩm” đó đòi hỏi phải có sự tuân thủ và lòng trung thành với những giá trị chung. Các trường công lập có vai trò quan trọng trong nhiệm vụ này, chí ít là đối với việc áp đặt tiếng Anh trở thành một ngôn ngữ chung. Trong hệ thống voucher thay thế, các tiêu chuẩn tối thiểu đối với các trường học muốn được công nhận đạt chuẩn có thể cẩn phải bao gồm cả việc sử dụng tiếng Anh. Nhưng việc yêu cầu áp dụng tiêu chuẩn này trong hệ thống trường tư ở thời điểm đó có thể gặp nhiều khó khăn. Tôi không có ý kết luận rằng hệ thống trường công chắc chắn thích hợp hơn hệ thống thay thế, mà chỉ hàm ý rằng để thực hiện điều đó vào thời điểm đó sẽ là tình huống khó khăn hơn nhiều so với bây giờ. Vấn đề của chúng ta hiện tại không phải là tuân thủ quy định, mà đúng hơn chúng ta đang bị đe dọa bởi quá nhiều yêu cầu tuân thủ quy định. Khó khăn mà chúng ta đang gặp phải là làm thế nào thúc đẩy được sự đa dạng, và hệ thống thay thế sẽ thực hiện được yêu cầu này hiệu quả hơn nhiều so với hệ thống trường học bị quốc hữu hoá.
Một yếu tố khác có thể khá quan trọng vào một thế kỷ trước là sự thiếu tin tưởng đối với hình thức trợ cấp tiền mặt cho các cá nhân (" handouts") và thiếu vắng một bộ máy hành chính hiệu quả để xử lý việc phân phối các voucher và kiểm tra tình trạng sử dụng chúng. Một bộ máy hành chính như vậy đã hiện diện khắp nơi trong thời hiện đại để triển khai các chính sách thu thuế thu nhập cá nhân và các chương trình an sinh xã hội. Nếu thiếu vắng yếu tố này, việc nhà nước quản lý các trường học có thể là cách duy nhất khả thi để tài trợ cho giáo dục.
Như một số ví dụ đã trích dẫn ở trên (Anh và Pháp) chỉ ra, một số cấu phần của phương án đề xuất đã xuất hiện trong hệ thống giáo dục hiện tại. Và tôi tin rằng, áp lực triển khai phương án thay thế này ở hầu hết các nước phương Tây đang ngày càng gia tăng. Điều này có lẽ có được một phần bởi sự phát triển của bộ máy hành chính nhà nước hiện đại, tạo thành điều kiện cho phương án như vậy trở nên khả thi.
Mặc dù nhiều vấn đề hành chính sẽ phát sinh khi thay đổi cũng như trong quá trình quản trị khi chuyển từ hệ thống hiện tại sang hệ thống đề xuất, nhưng chúng không phải là cái gì đó không thể giải quyết được, cũng không phải là những thứ độc nhất vô nhị. Trong quá trình phi quốc hữu hóa, cơ sở và thiết bị hiện tại có thể được bán cho các doanh nghiệp tư nhân muốn vào lĩnh vực này. Như vậy, sẽ không có sự lãng phí vốn trong quá trình chuyển đổi. Do những cơ quan chính quyền, chí ít là ở một số nơi, vẫn tiếp tục quản lý trường học, nên quá trình chuyển đổi sẽ diễn ra từ từ và dễ dàng. Chính quyền địa phương ở Hoa Kỳ và một số nước khác tương tự sẽ tạo thuận lợi cho quá trình chuyển đổi giáo dục chính quy, vì nó sẽ khuyến khích những thử nghiệm ở quy mô nhỏ. Khó khăn, không nghi ngờ gì, cũng sẽ phát sinh đối với một cơ quan chính quyền cụ thể trong việc xác định điều kiện tài trợ, nhưng điều này là đồng nhất với vấn đề hiện hữu, đó là việc xác định cơ quan chính quyền nào có nghĩa vụ phải cung cấp phương tiện giáo dục cho một đứa trẻ cụ thể. Sự khác biệt về quy mô các khoản tài trợ sẽ làm cho một khu vực hấp dẫn hơn những nơi khác, cũng giống như sự khác biệt trong chất lượng giáo dục hiện nay, có hiệu ứng tương tự. Có một điều có thể phức tạp hơn, đó là tình trạng lạm dụng có thể có cơ hội lớn hơn vì có nhiều tự do hơn để quyết định nơi trẻ em đến trường. Khó khăn trong quản trị là một phản biện thông thường đối với quan điểm chống lại bất kỳ sự thay đổi nào được đề xuất, và trong trường hợp này, nó là một phản biện thậm chí còn yếu hơn so với bình thường vì hệ thống hiện tại không những phải giải quyết những vấn đề chính yếu mà hệ thống mới được đề xuất phải đối mặt mà còn cả những vấn đề khác nữa nảy sinh khi chính quyền trực tiếp quản trị các trường học.
GIÁO DỤC CHÍNH QUY TẠI BẬC ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG
Bàn luận ở phần trước liên quan chủ yếu tới giáo dục tiểu học và trung học. Đối với giáo dục chính quy bậc cao hơn, lý giải cho quốc hữu hóa dựa trên cơ sở hiệu ứng lân cận hoặc độc quyền kỹ thuật thậm chí còn thiếu thuyết phục hơn. Đối với những bậc giáo dục chính quy thấp hơn, đã có sự đồng thuận đáng kể về các nội dung cơ bản mà một chương trình giáo dục cho công dân của xã hội dân chủ - bộ 3 R (đọc, viết và số học) – cần bao quát. Ở các bậc học càng cao thì sự đồng thuận càng thấp. Chắc chắn là, ngay cả ở bậc học thấp hơn bậc đại học cao đẳng tại Mỹ thì vẫn không có đủ sự đồng thuận để biện minh cho việc áp đặt quan điểm của đa số, hoặc chí ít là phần đông, lên tất cả. Thế nên, sự thiếu đồng thuận có lẽ đủ lớn để nghi ngờ về tính phù hợp của biện pháp trợ cấp cho giáo dục chính quy tại cấp học đại học cao đẳng; và chắc chắn đây là lý do đủ mạnh để làm suy bại bất kỳ đề xuất quốc hữu hóa nào dựa trên ý tưởng tạo ra các giá trị cốt lõi chung. Ở cấp học này, yếu tố "độc quyền kỹ thuật" hầu như không còn là vấn đề, theo nghĩa quãng đường mà các cá nhân phải di chuyển để theo học tại các cơ sở giáo dục bậc cao.
Ở Hoa Kì, các cơ sở đào tạo của nhà nước đóng vai trò thấp hơn trong giáo dục chính quy bậc cao so với giáo dục tiểu học, trung học. Tuy thế, từ những năm 1920 cho đến giờ, chúng ngày càng hiện diện với vai trò lớn hơn và hiện nay các cơ sở này đã tuyển hơn một nửa số sinh viên theo học tại các trường cao đẳng và đại học.3 Một trong những lý do chính dẫn đến sự bành trướng của chúng là bởi vì chi phí học tại đó tương đối rẻ; hầu hết các trường cao đẳng và đại học cấp bang hay cộng đồng đều thu học phí thấp hơn nhiều so với mức thu của các cơ sở tư nhân. Hệ quả là nhiều trường đại học tư nhân đã phải đối mặt với những vấn đề tài chính nghiêm trọng, và đã lên tiếng than phiền về sự cạnh tranh “không công bằng”. Họ muốn duy trì vị thế độc lập với chính phủ, nhưng đồng thời lại phải chịu áp lực tài chính, khiến họ buộc phải tìm kiếm viện trợ của chính phủ.
Các phân tích ở phần trên đã gợi mở cho chúng ta con đường để tìm ra một giải pháp thỏa đáng. Chi tiêu công cho giáo dục chính quy ở bậc cao có thể được biện minh như một phương tiện đào tạo cho lớp trẻ có trách nhiệm công dân và tinh thần lãnh đạo cộng đồng - dù thế thì tôi vẫn phải nhấn mạnh rằng không thể dùng lý lẽ này để biện minh cho đa phần chi tiêu hiện tại cho hoạt động đào tạo nghề, hoặc thực ra như chúng ta sẽ thấy, không có bất kỳ lý lẽ thỏa đáng nào khác để biện minh cho các khoản chi tiêu này. Việc trợ cấp cho giáo dục chính quy tại một đơn vị thuộc quản lý của nhà nước cũng không có cơ sở biện minh thỏa đáng nào. Trợ cấp nên được phân phát cho các cá nhân để họ sử dụng khoản này tại các cơ sở giáo dục theo lựa chọn, với điều kiện là các cơ sở giáo dục đó có loại hình giáo dục chính quy đáng được trợ cấp. Bất kỳ trường công lập nào còn được giữ lại thì đều cần phải thu học phí ở mức tương đương với các trường không được chính phủ hỗ trợ.4 Hệ thống như vậy về đại thể sẽ đi theo cách tổ chức chương trình tài trợ giáo dục cho các cựu chiến binh Hoa Kỳ sau khi chiến tranh thế giới II kết thúc, ngoại trừ việc nguồn tài trợ có lẽ nên đến từ ngân sách tiểu bang chứ không phải là ngân sách liên bang.
Việc triển khai mô hình tổ chức như vậy sẽ làm cho cạnh tranh giữa các loại hình trường học trở nên thực chất hơn và giúp tận dụng các nguồn lực hiệu quả hơn. Nó sẽ loại bỏ áp lực cần trợ giúp trực tiếp của chính quyền ở các trường cao đẳng và đại học tư nhân và vì thế duy trì được tính đa dạng và mức độ độc lập hoàn toàn của các trường đó, qua đó cho phép chúng phát triển song song với các trường công. Cách thức như vậy còn tạo ra một lợi ích phụ khác, đó là việc rà soát kỹ lưỡng hơn mục đích của các khoản trợ cấp. Trợ cấp cho các tổ chức thay vì cho các cá nhân đã dẫn đến sự trợ cấp bừa bãi vào tất cả các hoạt động phù hợp cho tổ chức hơn là vào các hoạt động phù hợp cần đến sự trợ cấp của nhà nước. Có lẽ chỉ cần kiểm tra lướt qua cũng thấy là tuy có sự chồng lấn giữa hai loại hoạt động đó, nhưng chúng còn xa mới giống nhau.
Vấn đề tính công bằng của phương án thay thế rất rõ ràng ở cấp cao đẳng và đại học vì sự tồn tại của một số lượng lớn và đa dạng các cơ sở giáo dục tư nhân. Ví dụ, chính quyền tiểu bang Ohio, nói với công dân của họ: "Nếu ông bà có con cái muốn đi học đại học, chúng tôi sẽ tự động cấp cho các cô cậu ấy học bổng bốn năm khá hậu hĩnh, với điều kiện là cô cậu ấy phải đáp ứng được những yêu cầu tối thiểu của bậc đại học, và thêm nữa, các cô cậu ấy cần đủ nhạy bén để lựa chọn Đại học tổng hợp Ohio. Nếu các câu cậu ấy muốn đi hoặc do ông bà muốn các cô cậu ấy đi học tại Đại học tổng hợp Oberlin, hoặc Đại học tổng hợp Western Reserve, chứ chưa nói tới Yale, Harvard, Northwestern, Beloit, hoặc Đại học tổng hợp Chicago, thì sẽ không nhận được một xu nào cả." Cơ sở nào để biện hộ cho những chương trình như vậy? Phải chăng sẽ công bằng hơn rất nhiều cũng như thiết lập được những tiêu chuẩn học bổng cao hơn nếu như tiểu bang Ohio mở rộng phạm vi chương trình tài trợ cho giáo dục bậc cao đó cho mọi trường đại học và cao đẳng và buộc trường đại học tổng hợp Ohio phải cạnh tranh công bằng với các trường đại học, cao đẳng khác?5
GIÁO DỤC CHÍNH QUY ĐỐI VỚI HỌC NGHỀ VÀ HƯỚNG NGHIỆP
Giáo dục chính quy đối với học nghề và hướng nghiệp không có hiệu ứng lân cận thuộc loại như của giáo dục phổ thông đã đề cập ở trên. Nó là một hình thức đầu tư vào vốn con người tương tự như đầu tư vào máy móc, nhà xưởng, hoặc các hình thức không phải vốn con người. Chức năng của nó là để nâng cao năng suất kinh tế cho con người. Trong một xã hội tự do kinh doanh, nếu theo học loại hình giáo dục này, các cá nhân sẽ được tưởng thưởng vì sẽ nhận được thu nhập cao hơn cho các dịch vụ mình cung cấp, tức cao hơn so với mức thu nhập anh ta có khả năng được hưởng khi không có khoản đầu tư đó. Sự khác biệt về thù lao là động lực kinh tế để đầu tư vốn vào máy móc hoặc vào con người. Trong cả hai trường hợp, thù lao trả thêm phải được cân đối với các chi phí để sở hữu chúng. Đối với học nghề, chi phí chủ yếu là thu nhập bị bỏ qua trong thời gian theo học, mối quan tâm bị mất đi do trì hoãn bắt đầu giai đoạn kiếm tiền, và các chi phí đặc thù cho đào tạo như: học phí và các chi phí cho giáo trình và các trang thiết bị. Đối với vốn vật chất, chi phí chủ yếu là chi phí đầu tư cho máy móc và xây dựng và lợi ích bị bỏ qua trong quá trình xây dựng. Trong cả hai trường hợp, một cá nhân sẽ coi khoản đầu tư là đáng mong muốn nếu như lợi ích nhận thêm theo như anh ta đánh giá vượt quá chi phí tăng thêm cũng theo đánh giá của anh ta.7 Trong cả hai trường hợp, nếu cá nhân tự gánh vác khoản đầu tư và nếu nhà nước không trợ cấp đầu tư, cũng không đánh thuế khoản thu nhập, thì các cá nhân (hoặc cha mẹ, người đỡ đầu, hoặc ân nhân của họ) nói chung cần phải gánh chịu toàn bộ chi phí tăng thêm cũng như nhận được tất cả lợi ích gia tăng: không có những chi phí bất thường hoặc những lợi ích không phù hợp nào khiến cho các động lực tư nhân trở nên khác biệt một cách hệ thống với những động lực đúng đắn của xã hội.
Nếu như vốn sẵn sàng đầu tư cho con người cũng tương tự như đầu tư tài sản vật chất, cho dù thông qua thị trường hoặc thông qua đầu tư trực tiếp của các cá nhân liên quan, hoặc cha mẹ họ hoặc các nhà hảo tâm của họ, thì tỷ suất lợi nhuận trên vốn sẽ có xu hướng tương đương trong hai lĩnh vực. Nếu vốn vật chất cho tỷ suất cao hơn, các bậc phụ huynh sẽ có động cơ để mua tài sản vật chất cho con cái của họ thay vì đầu tư một khoản tiền tương ứng vào học nghề, và ngược lại. Tuy nhiên, trong thực tế có rất nhiều bằng chứng thực nghiệm cho thấy tỷ suất lợi nhuận cho đào tạo nghề cao hơn nhiều so với tỷ suất lợi nhuận đầu tư vào vốn vật chất. Sự khác biệt này gợi ý rằng có sự đầu tư dưới mức vào vốn con người.8
Việc đầu tư dưới mức vào vốn con người có lẽ phản ánh phần nào về sự không hoàn hảo trong thị trường vốn. Đầu tư vào con người không thể được tài trợ bằng các điều khoản tương tự hoặc với sự dễ dàng tương tự như đầu tư vào vốn vật chất. Rất dễ để hiểu tại sao. Nếu một khoản tiền vay cố định được dùng để tài trợ cho khoản đầu tư vào vốn vật chất, người cho vay có thể nhận được sự bảo đảm cho các khoản vay của mình trong hình thức thế chấp hoặc quyền được hưởng giá trị thặng dư đối với chính các tài sản vật chất đó, và trong trường hợp phá sản thì người cho vay cũng có thể thu hồi một phần đầu tư bằng cách bán các tài sản vật chất. Nếu anh ta cho vay một khoản tương đương để cho một người khác cải thiện khả năng kiếm tiền, thì rõ ràng là người cho vay không thể có những bảo đảm tương tự. Trong các nhà nước không có chế độ nô lệ không thể mua hoặc bán các cá nhân được đầu tư. Thậm chí nếu có thể, thì mức độ đảm bảo cũng không bằng được so với việc đầu tư vào vốn vật chất. Năng suất của vốn vật chất nói chung không phụ thuộc vào thái độ hợp tác của người đi vay. Năng suất của vốn nhân lực rõ ràng lại rất phụ thuộc. Một khoản vay để tài trợ cho việc đào tạo một cá nhân mà không có gì khác bảo đảm ngoài thu nhập tương lai của người đó thì sẽ là là một đề xuất ít hấp dẫn hơn nhiều so với khoản vay để tài trợ cho xây dựng một tòa nhà: sự bảo đảm ít hơn, và chi phí thu lại tiền lãi và tiền gốc sau đó cũng lớn hơn rất nhiều.
Còn có một điều phức tạp hơn, đó là sự bất hợp lý của các khoản cho vay cố định tài trợ cho các khoản đầu tư vào đào tạo. Một sự đầu tư như vậy nhất thiết phải bao hàm nhiều rủi ro. Thu nhập kì vọng có thể ở mức cao, nhưng chúng cũng có độ biến động lớn so với mức trung bình. Tử vong hay tật nguyền là một trong những nguồn hiển nhiên gây ra khác biệt nhưng những nguyên nhân này có lẽ ít quan trọng hơn nhiều so với sự khác biệt trong khả năng, nghị lực, và độ may mắn. Do đó nếu những khoản cho vay cố định chỉ được đảm bảo bằng các khoản thu nhập dự kiến trong tương lai thì một phần đáng kể sẽ không bao giờ được hoàn trả. Để khiến kiểu cho vay đó hấp dẫn đối với người cho vay, thì lãi suất danh nghĩa tính trên tất cả các khoản vay sẽ phải đủ cao để bù đắp cho những tổn thất vốn từ các khoản vỡ nợ. Lãi suất danh nghĩa cao sẽ trái ngược với luật pháp quy định chống cho vay nặng lãi và sẽ làm cho các khoản vay chẳng còn hấp dẫn gì nữa đối với những người đi vay.9 Một công cụ có thể áp dụng cho trường hợp đầu tư rủi ro là đầu tư dưới dạng cổ phần cộng với trách nhiệm hữu hạn trên phần vốn góp của các cổ đông. Những đối tác đầu tư cho hoạt động giáo dục sẽ "mua" một phần trong triển vọng thu nhập của một cá nhân, để hỗ trợ anh ta số tiền cần thiết để tài trợ cho quá trình đào tạo với điều kiện là anh ta đồng ý trả cho người cho vay một phần xác định trong thu nhập tương lai của mình. Bằng cách này, người cho vay nhận lại nhiều hơn so với mức đầu tư gốc của họ từ các cá nhân tương đối thành công, qua đó sẽ bù đắp cho thiệt hại từ những khoản đầu tư gốc vào những người không thành công.
Có vẻ như không có trở ngại pháp lý gì đối với hợp đồng tư nhân loại này, dù rằng về mặt kinh tế thì chúng cũng tương đương với việc mua một phần khả năng kiếm tiền của con người và do đó có đôi phần giống với chế độ nô lệ. Một lý do tại sao loại hợp đồng này không trở nên phổ biến là, mặc dù lợi nhuận cho cả người cho vay và người đi vay là rất tiềm năng, nhưng những chi phí về mặt quản lý có lẽ cao do sự tự do của các cá nhân trong việc di chuyển từ nơi này đến nơi khác, do sự cần thiết phải nhận được báo cáo thu nhập chính xác, và do thời gian hiệu lực hợp đồng trong dài hạn. Các chi phí này có lẽ sẽ đặc biệt cao đối với hoạt động đầu tư quy mô nhỏ cho những cá nhân trên một địa bàn rộng lớn. Chi phí này có thể là lý do trước tiên khiến hình thức đầu tư trên chưa bao giờ được phát triển dưới sự bảo trợ tư nhân.
Rất có thể là như thế, tuy nhiên, một nguyên nhân quan trọng khác là bởi ý tưởng này còn quá mới mẻ, việc coi đầu tư vào con người hoàn toàn tương đồng với đầu tư vào các tài sản vật chất là cái gì đó còn lạ lẫm, khả năng các hợp đồng như vậy sẽ bị công chúng lên án một cách phi lý ngay cả khi người ta tự nguyện tham gia, và những rào cản pháp lý cũng như truyền thống đối với hình thức đầu tư này áp đặt vào những trung gian tài chính phù hợp nhất đối với nó, cụ thể là, các công ty bảo hiểm nhân thọ. Lợi ích tiềm năng, đặc biệt là đối với những hãng gia nhập ngành đầu tiên, thực sự là rất lớn khiến cho những hãng đầu tư vào hoạt động này sẵn sàng chấp nhận những chi phí quản lý cực lớn.10
Bất kể lý do nào thì thị trường không hoàn hảo cũng đã dẫn đến sự thiếu hụt đầu tư vào vốn con người. Sự can thiệp của chính phủ do đó có thể được hợp lý hóa trên cả hai lý lẽ: (i) "độc quyền kỹ thuật," trong chừng mực những trở ngại cho sự mở rộng hoạt động đầu tư là các chi phí quản lý hành chính, và (ii) cải thiện hoạt động của thị trường, trong chừng mực nó giúp đơn giản hóa các rào cản thị trường và sự cứng nhắc của thị trường.
Nếu chính phủ muốn can thiệp như vậy thì nên làm thế nào? Một hình thức can thiệp có thể thấy ngay và là hình thức đã được thực hiện duy nhất cho đến nay, là việc chính phủ trợ cấp hoàn toàn cho dạy nghề và đào tạo hướng nghiệp từ nguồn ngân sách chung. Hình thức này có vẻ rõ ràng là bất hợp lý. Đầu tư phải được thực hiện cho đến điểm mà tại đó lợi nhuận tăng thêm bù đắp được khoảng tiền đầu tư cộng với lãi suất thị trường của nó. Nếu đầu tư vào một người, thì doanh lợi tăng thêm có hình thức là khoản thu nhập cao hơn của một cá nhân so với khi anh ta không được đầu tư. Trong một nền kinh tế thị trường tư nhân, các cá nhân sẽ nhận khoản doanh lợi này dưới dạng thu nhập cá nhân của mình. Nếu đầu tư được trợ cấp, anh ta sẽ không phải chịu chi phí gì. Kết quả là, nếu trợ cấp được trao cho tất cả những ai muốn được đào tạo, và có thể đáp ứng tiêu chuẩn tối thiểu về chất lượng, thì sẽ có xu hướng đầu tư quá mức vào vốn con người, bởi vì các cá nhân sẽ có động cơ để được đào tạo miễn là nó mang lại lợi ích tăng thêm nhiều hơn chi phí cá nhân, ngay cả khi lợi ích thu lại không đủ để hoàn trả vốn đầu tư, chứ chưa nói đến khoản lãi của tiền đầu tư. Để tránh sự đầu tư quá mức như vậy, chính phủ sẽ phải hạn chế các khoản trợ cấp. Thậm chí ngoài những khó khăn trong việc tính toán "đúng" số tiền đầu tư, điều này cũng dẫn đến việc phân phối một cách tùy tiện số lượng có hạn các khoản đầu tư cho nhiều đối tượng mong muốn được tài trợ. Những người may mắn được trợ cấp đào tạo sẽ nhận được tất cả lợi ích từ việc đầu tư trong khi đó chi phí sẽ do người nộp thuế nói chung gánh chịu – đây rõ ràng là sự một phân phối lại thu nhập hoàn toàn tùy tiện và vô lý.
Điều đáng muốn không phải là phân phối lại thu nhập mà là làm thể nào để nguồn vốn sẵn sàng đầu tư vào con người ở mức tương xứng như đầu tư vào vật chất. Các cá nhân phải tự chịu chi phí đầu tư vào bản thân mình để nhận được phần thưởng. Khi họ sẵn sàng chịu chi phí đầu tư thì họ không nên bị cản trở bởi thị trường không hoàn hảo. Có một cách để đạt được kết quả này, đó là chính phủ tham gia đầu tư cổ phần vào vốn con người. Một cơ quan chính phủ có thể cung cấp tài trợ hoặc trợ giúp tài chính cho việc đào tạo của bất kỳ cá nhân nào miễn là đáp ứng được những tiêu chí chất lượng tối thiểu. Cơ quan này sẽ cung cấp số tiền hạn chế trong một số năm nhất định, với điều kiện là các khoản tiền được chi tiêu vào việc đào tạo tại một tổ chức giáo dục được công nhận. Để đổi lại, cá nhân sẽ đồng ý trả cho chính phủ một tỷ lệ phần trăm xác định của phần thu nhập hàng năm trong tương lai vượt quá một số tiền cơ sở xác định cho mỗi 1.000 USD mà anh ta nhận được từ chính phủ. Khoản thanh toán này có thể dễ dàng kết hợp với thuế thu nhập cá nhân và do đó tiêu tốn ít nhất các chi phí quản lý hành chính bổ sung. Số tiền cơ sở cần được thiết lập bằng với tổng thu nhập trung bình ước tính của người không được đào tạo nghề và hướng nghiệp; phần thu nhập chi trả phải được tính toán để đảm bảo sao cho toàn bộ dự án tự chủ về tài chính. Bằng cách này, các cá nhân được đào tạo trên thực tế sẽ gánh chịu toàn bộ chi phí. Sau này, số tiền đầu tư có thể được để cho các cá nhân tự xác định và lựa chọn. Với điều kiện rằng đây là cách duy nhất mà chính phủ tài trợ cho dạy nghề và đào tạo hướng nghiệp, và thêm điều kiện rằng các khoản thu nhập phản ánh tất cả lợi ích và chi phí liên quan, thì sự tự do lựa chọn của cá nhân sẽ có xu hướng đưa ra khối lượng đầu tư tối ưu.
Điều kiện thứ hai đáng tiếc là không có khả năng thỏa mãn được hoàn toàn vì việc tính toán cả lợi ích phi tiền tệ nêu ở trên là bất khả thi. Do đó, trong thực tế, hoạt động đầu tư vào giáo dục theo đề xuất này sẽ vẫn quá nhỏ và sẽ không được phân phối một cách tối ưu.11
Vì nhiều lý do, sẽ thích hợp hơn nếu để các tổ chức tài chính tư nhân và các tổ chức phi lợi nhuận như các quỹ và các trường đại học triển khai đề xuất này. Vì những khó khăn liên quan đến việc ước tính thu nhập cơ sở và phần thu nhập vượt quá mức cơ sở phải trả cho chính phủ nên sẽ có mối nguy to lớn, đó là khi chương trình này biến thành một thứ bóng đá chính trị. Thông tin về thu nhập hiện tại trong các ngành nghề khác nhau sẽ chỉ cung cấp một xấp xỉ gần đúng với giá trị để đảm bảo rằng dự án sẽ tự chủ về mặt tài chính. Ngoài ra, nên có sự khác biệt giữa các cá nhân khi xác lập mức thu nhập cơ sở và phần vượt quá căn cứ theo bất cứ sự khác biệt nào trong thu nhập dự kiến mà có thể được dự đoán trước, cũng giống như bảo hiểm nhân thọ khác nhau giữa các nhóm có tuổi thọ khác nhau.
Trong chừng mực chi phí hành chính là trở ngại cho việc triển khai một kế hoạch như vậy đối với các cơ sở tư nhân, thì cơ quan chính phủ thích hợp để cung ứng nguồn quỹ là chính quyền liên bang chứ không phải là các đơn vị nhỏ hơn. Bất kỳ một cơ quan tiểu bang nào cũng sẽ gánh chịu những chi phí giống như một công ty bảo hiểm trong việc theo dõi những người mà họ đã tài trợ. Những chi phí này sẽ được giảm thiểu mặc dù không hoàn toàn hết nếu cơ quan quản lý là của chính quyền liên bang. Ví dụ một người di cư đến một bang khác, thì người đó về mặt pháp lý và đạo đức có nghĩa vụ phải đóng góp một phần được đồng thuận từ thu nhập của mình, nhưng việc thực thi các nghĩa vụ này là rất khó khăn và tốn kém. Do đó những người rất thành công sẽ có động cơ để di cư. Dĩ nhiên, vấn đề tương tự cũng nảy sinh đối với việc thu thuế thu nhập, nhưng mức độ khó khăn lớn hơn nhiều. Vấn đề trên và các vấn đề hành chính khác sẽ nảy sinh khi tiến hành chương trình này ở các tiểu bang, trong khi không nghi ngờ gì hết, những phiền hà này có vẻ không nghiêm trọng khi tiến hành ở cấp độ liên bang. Vấn đề nghiêm trọng là ở góc độ chính trị như đã nhắc tới: làm sao để ngăn chặn chương trình này trở thành một trò bóng đá chính trị và ngăn chặn quá trình chuyển đổi từ một dự án tự chủ tài chính trở thành một phương tiện trợ cấp cho giáo dục dạy nghề.
Nhưng nếu nguy cơ là có thật, thì cơ hội cũng vậy. Sự không hoàn hảo hiện hữu trong thị trường vốn có xu hướng khiến việc đào tạo nghề và giáo dục hướng nghiệp vốn dĩ đắt đỏ chỉ dành cho những người có cha mẹ hoặc các nhà hảo tâm đủ sức tài trợ. Nó khiến cho các cá nhân đó trở thành một nhóm không bị cạnh tranh bằng cách che chở họ khỏi sự cạnh tranh khi không đáp ứng nhu cầu vốn cần thiết cho rất nhiều người có khả năng. Kết quả là duy trì sự bất bình đẳng về của cải và địa vị. Sự phát triển của cách thức tổ chức như đã vạch ra ở trên sẽ làm cho vốn dễ tiếp cận hơn và qua đó sẽ tạo ra được sự bình đẳng về cơ hội trong thực tế, sẽ giảm bớt sự bất bình đẳng về thu nhập và của cải, và để thúc đẩy việc sử dụng tối đa các nguồn lực con người. Và cách thức đó cũng sẽ không cản trở cạnh tranh, phá hủy động cơ, và giải quyết các hậu quả như là cách thức phân phối lại hoàn toàn thu nhập gây ra, mà nó sẽ tăng cường cạnh tranh, làm cho các động cơ trở nên hiệu quả, và loại bỏ những nguyên nhân của bất bình đẳng.
(Xem tiếp Phần 9)
Chú thích:
(1) Không có gì là ảo diệu khi nhận thấy rằng bước đi như trên sẽ ảnh hưởng đáng kể đến quy mô các gia đình. Ví dụ, một lời giải thích về tỷ lệ sinh trong các nhóm kinh tế xã hội cao thường thấp hơn tỷ lệ trong nhóm kinh tế xã hội thấp là bởi vì nhóm đầu nuôi con có thể tương đối tốn kém hơn, do họ duy trì những tiêu chuẩn cao hơn trong giáo dục dẫn đến những khoản chi phí mà họ gánh chịu cũng cao hơn.
(2) Một ví dụ chấn động về tác dụng tương tự trong một lĩnh vực khác là Dịch vụ Y tế Quốc gia Vương quốc Anh. Trong một nghiên cứu cẩn trọng và xuyên thấu, D.S.Lees kết luận một cách thuyết phục rằng "Chi tiêu cho Dịch vụ y tế công không hề quá mức mà thực ra là ở mức thấp hơn nhiều so với mức người tiêu dùng có thể sẽ chọn để chi tiêu trong một thị trường tự do. Đặc biệt đáng nói là số liệu về các tòa nhà bệnh viện." "Health Through Choice,"Hobart Paper 14 (London: Institute of Economic Affairs, 1961), p. 58.
(3) Xem George J. Stigler, Employment and Compensation in Education ("Occasional Paper" No. 33, [New York: National Bureau of Economic Research, 1950]), p. 33.
(4) Tôi loại trừ chi phí nghiên cứu cơ bản khỏi các mức chi tiêu. Tôi đã diễn giải giáo dục chính quy theo nghĩa hẹp để để tránh đưa ra nhận định sang một lĩnh vực quá rộng.
(5) Tôi đã sử dụng trường hợp tại Ohio thay vì Illinois, bởi vì kể từ khi công bố bài viết (năm 1953) được sử dụng làm phiên bản cho chương này, Illinois đã thông qua một chương trình đi một phần theo con đường này bằng cách cung cấp các học bổng cho cả trường đại học và cao đẳng tư thục trong tiểu bang Illinois. Bang California cũng đã làm như vậy. Bang Virginia đã thông qua một chương trình tương tự ở cấp độ thấp hơn vì một lý do rất khác biệt, để tránh sự hội nhập chủng tộc. Trường hợp Virginia được thảo luận trong chương VII.
(6) Có thể chỉ có một phần thu nhập tăng thêm là dưới hình thức tiền tệ; nó cũng có thể bao gồm những lợi thế phi tiền tệ gắn liền với nghề nghiệp tạo ra cho các cá nhân nhờ đào tạo nghề. Tương tự như vậy, các nghề nghiệp cũng có thể có những bất lợi phi tiền tệ, mà sẽ phải được tính trong chi phí đầu tư.
(7) Về những trình bày chi tiết và chính xác hơn đối với sự cân nhắc tham gia vào việc lựa chọn nghề nghiệp, xem Milton Friedman và Simon Kuznets, Income From Independent Professional Practice (New York: National Bureau of Economic Research, 1945), pp. 81-95, 118-37.
(8) Xem G.S. Becker, "Underinvestment in College Education?" American Economic Review, Proceedings L (1960), 356-64; T. W. Schultz, "Investment in human Capital," American Economic Review, LXI (1961), 1-17.
(9) Mặc dù có những trở ngại đối với các khoản vay tiền cố định, tôi phải nói rằng đó đã là một biện pháp rất phổ biến của hoạt động tài trợ cho giáo dục ở Thụy Điển, là nơi rõ ràng chúng được cung cấp với mức lãi suất vừa phải. Có thể giải thích điều này là do sự phân tán thu nhập giữa sinh viên tốt nghiệp đại học nhỏ hơn so với ở Hoa Kỳ. Nhưng đây không phải là lời giải thích rốt ráo và có thể không phải là lý do duy nhất hoặc chính yếu cho sự khác biệt trong thực tế. Tiếp tục nghiên cứu trường hợp của Thụy Điển và các trường hợp tương tự là rất cần thiết để kiểm tra xem những lý do đưa ra ở trên có đủ để giải thích sự vắng mặt một thị trường tài chính phát triển để tài trợ cho giáo dục nghề nghiệp tại Hoa Kỳ và các nước khác không, hoặc liệu có những trở ngại khác mà có thể được loại bỏ dễ dàng hơn không.
Trong những năm gần đây đã chứng kiến sự phát triển đáng khích lệ các khoản cho vay tư nhân đối với sinh viên đại học ở Mỹ. Quỹ hỗ trợ sinh viên Hoa Kỳ - một tổ chức phi lợi nhuận cam kết bảo lãnh cho các khoản vay của các ngân hàng - đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình này.
(10) Việc suy đoán về cách thức kinh doanh cũng như phương pháp phụ thu lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh đó luôn là một câu chuyện thú vị. Các hãng mới gia nhập ngành ban đầu sẽ có những lựa chọn đầu tư tốt nhất, bằng cách áp đặt các tiêu chuẩn chất lượng rất cao với các cá nhân họ sẵn sàng tài trợ. Nếu họ làm vậy, họ sẽ gia tăng lợi nhuận cảu khoản đầu tư vì giành được sự công nhận của công chúng về chất lượng thượng thừa của các cá nhân được nhận tài trợ: những câu chuyện kiểu như được "tài trợ học tập bởi Công ty Bảo hiểm XYZ " có thể trở thành sự bảo đảm cho chất lượng (giống như sự bảo đảm "Được chứng nhận bởi Good Housekeeping") và có thể sẽ thu hút được khách hàng. Tất cả các loại dịch vụ phổ biến khác có thể được công ty XYZ đưa ra dành cho các bác sĩ, luật sư, nha sĩ, v.v.
(11) Tôi xin cảm ơn Harry G. Johnson và Paul W. Cook, Jr., đã gợi ý tôi đề cập tới các tiêu chuẩn này. Về một cuộc thảo luận đầy đủ hơn về vai trò của lợi thế và bất lợi của các khoản thu nhập phi tiền tệ trong việc xác định thu nhập trong các mục đích khác nhau, xem Friedman và Kuznets trích dẫn ở trên.
Nguồn: Milton Friedman, Capitalism and Freedom, The University of Chicago Press, 1962