Biện chứng là gì? (Phần 2/3)
Bài viết phê phán phép biện chứng kinh điển này của Karl Popper được tác giả đọc tại một seminar về triết học tại Canterbury University College, Christchurch, New Zealand, năm 1937. Xuất bản lần đầu trên Mind, n.s., 49, 1940. Bản dịch tiếng Việt được thực hiện từ bản in lại trong Popper, Karl, Conjectures and Refutations: the Growth of Scientific Knowledge, 1989, 5ed, Routledge: London, pp. 312-35.
- Thị Trường Tự do Academy
(Tiếp theo Phần 1)
2. Phép biện chứng của Hegel
Ở phần trước tôi đã cố gắng phác họa nội dung của phép biện chứng theo một cách thức mà tôi hy vọng khiến nó trở nên có ý nghĩa, và mục đích của tôi không phải là hạ thấp giá trị của nó. Trong phác họa đó, phép biện chứng được trình bày như là một cách thức mô tả các quá trình phát triển; như là một trong nhiều cách thức, nó không có được tính chất nền tảng, mà chỉ đôi khi phù hợp. Đối lập với quan điểm này là một lý thuyết biện chứng đã được thiết lập, chẳng hạn bởi Hegel và trường phái của ông, vốn phóng đại tầm quan trọng của phép biện chứng, và dẫn đến sai lạc đầy nguy hiểm.
Để làm cho phép biện chứng của Hegel trở nên có thể hiểu được chúng ta nên đề cập đôi chút tới một chương trong lịch sử triết học – theo ý kiến riêng của tôi thì đó không phải là một chương vẻ vang gì cho lắm.
Một vấn đề trọng tâm trong lịch sử triết học hiện đại là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy lý Descartes (chủ yếu ở châu Âu lục địa) ở một bên, và chủ nghĩa thực nghiệm (chủ yếu ở Liên hiệp Anh) ở bên kia. Câu nói của Descartes mà tôi sử dụng làm đề dẫn ở đầu bài luận này theo cách hiểu mà tôi đã cố gắng trình bày không phải là theo chủ ý của Descartes, cha đẻ của trường phái duy lý. Nó không được chủ định để đóng vai trò như là một gợi mở rằng tâm trí con người phải thử mọi cách thức để đạt được cái gì đó – nghĩa là, đạt được một giải pháp hữu ích nhất định nào đó – mà chỉ là một phê phán đầy bực tức đối với những ai dám thử làm những thứ vô nghĩa như thế. Điều Descartes muốn nói, ý tưởng chính đằng sau câu nói đó, là: một triết gia thực thụ nên cẩn thận tránh các ý tưởng vô nghĩa và ngu ngốc. Để tìm ra chân giá trị anh ta chỉ được phép chấp nhận một số rất ít các ý tưởng, những ý tưởng thuyết phục được lý tính bằng sự sáng sủa của chúng, bằng sự mạch lạc và minh bạch của chúng, nói ngắn gọn, các ý tưởng “tự thân đã rõ ràng” (self-evident). Quan điểm của trường phái Descartes là: chúng ta có thể xây dựng được các lý thuyết khoa học có khả năng giải thích mà không cần phải trông cậy vào kinh nghiệm, tức là chỉ cần trông cậy vào việc sử dụng lý tính của chúng ta; vì rằng mọi định đề có khả năng lý giải (nghĩa là, một định đề phó thác chính nó cho tính sáng sủa của nó) phải là một mô tả chân thực các thực tế (facts). Đấy là một tóm lược cái lý thuyết mà lịch sử triết học gọi là “chủ nghĩa duy lý”. (Một cái tên tốt hơn có lẽ là “chủ nghĩa duy trí tuệ” (intellectualism)). Có thể tóm tắt lý thuyết đó (sử dụng một diễn ngôn được đưa ra mãi sau này bởi Hegel) trong vài từ: “cái gì mà có lý tất phải có thực”.
Đối lập với lý thuyết này, chủ nghĩa thực nghiệm cho rằng: chỉ kinh nghiệm mới cho phép chúng ta quyết định tính chân hoặc giả của một lý thuyết khoa học. Theo chủ nghĩa thực nghiệm, chỉ lý lẽ thuần túy không thôi không thể nào thiết lập được chân giá trị thực sự; chúng ta phải sử dụng quan sát và thí nghiệm. Có thể an toàn nói rằng, chủ nghĩa thực nghiệm, dưới hình thức này hay hình thức khác, dù đó có là một hình thức mới nhất và đã được điều chỉnh, là cách lý giải phương pháp nghiên cứu khoa học duy nhất còn được tiếp nhận nghiêm túc trong thời đại của chúng ta. Cuộc đấu tranh giữa trường phái duy lý và trường phái thực nghiệm thủa ban sơ đã được bàn đến kỹ lưỡng bởi Kant, người đã nỗ lực đưa ra cái mà một nhà biện chứng (nhưng không phải là Kant) có thể coi là một hợp đề của hai quan niệm đối lập, nhưng chính xác ra thì đó là một phiên bản của chủ nghĩa thực nghiệm. Mục tiêu chính của ông là bác bỏ chủ nghĩa duy lý thuần túy. Trong Critique of Pure Reason [Phê phán lý tính thuần túy – ND], Kant đã nhận định rằng phạm vi hiểu biết của chúng ta bị giới hạn bởi khung vực của kinh nghiệm khả thể, và rằng lý lẽ tư biện vượt quá khung vực này – nỗ lực để xây dựng một hệ thống siêu hình vượt ra ngoài lý tính thuần túy – không có bất kỳ cơ sở biện minh nào cả. Phê phán lý tính thuần túy này tựa như một gáo nước lạnh dội vào hy vọng của hầu hết các triết gia châu Âu lục địa; tuy thế các triết gia Đức đã hồi phục và, thay vì bị phản bác của Kant về siêu hình học thuyết phục, họ đã nhanh chóng xây dựng các hệ thống siêu hình mới dựa trên “trực giác trí tuệ” (intellectual intuition). Họ đã cố gắng sử dụng một số các yếu tố nhất định của hệ thống của Kant, nhờ đó hy vọng trốn tránh được đòn tấn công chính yếu trong phê phán của ông. Cái trường phái được xây dựng, thường được gọi là trường phái của các nhà duy tâm Đức, đã tích tụ tới đỉnh điểm trong Hegel.
Có hai khía cạnh của triết học Hegel mà chúng ta phải xem xét – chủ nghĩa duy tâm và phép biện chứng của ông. Trong cả hai trường hợp Hegel đã chịu ảnh hưởng từ một số các ý tưởng của Kant, nhưng ông đã cố gắng tiến xa hơn. Do đó, để hiểu Hegel chúng ta phải chỉ ra lý thuyết của ông đã sử dụng những yếu tố nào của Kant.
Kant đã khởi đầu từ thực tế rằng khoa học tồn tại. Ông muốn giải thích thực tế này; nghĩa là, ông muốn trả lời câu hỏi: “Khoa học có khả năng như thế nào?”, hoặc, “các tâm trí con người có khả năng gặt hái tri thức về thế giới như thế nào?”, hoặc, “tâm trí của chúng ta có thể thấu hiểu thế giới như thế nào?” (Chúng ta có lẽ nên gọi câu hỏi này là vấn đề nhận thức luận).
Lý lẽ của ông về cơ bản như sau. Tâm trí có thể thấu hiểu thế giới, hay đúng hơn là thế giới như nó xuất hiện trước mắt chúng ta, bởi vì thế giới này không hoàn toàn khác biệt với tâm trí – bởi vì nó tựa-như-tâm-trí (mind-like). Và nó là như thế, bởi vì trong quá trình tiếp nhận tri thức, thấu hiểu thế giới, tâm trí chủ động sàng lọc hấp thụ, nếu có thể nói vậy, tất cả mọi vật liệu đi vào nó qua các giác quan. Nó hình thành, nhào nặn vật liệu này; nó áp lên vật liệu đó các hình hài hoặc các qui luật từ trong nó – các hình hài và các qui luật của tư duy chúng ta. Cái chúng ta gọi là “tự nhiên” – thế giới tại đó chúng ta sống, thế giới như nó xuất hiện trước mắt chúng ta – đã là một thế giới được tinh lọc, một thế giới được tạo hình hài, bởi tâm trí của chúng ta. Và vì là nó được làm đồng dạng bởi tâm trí, nó tựa-như-tâm-trí.
Câu trả lời, “Tâm trí có thể thấu hiểu thế giới bởi vì thế giới như nó xuất hiện trước mắt chúng ta tựa-như-tâm-trí” là một lý lẽ theo kiểu chủ nghĩa duy tâm; vì rằng chủ nghĩa duy tâm nhận định đơn giản là: thế giới có một cái gì đó mang đặc tính của tâm trí.
Ở đây tôi không có ý định lập luận ủng hộ hay phản bác lại cái nhận thức luận này của Kant và tôi không có ý định bàn thảo nó chi tiết. Nhưng tôi muốn chỉ ra rằng lý lẽ đó tất nhiên không duy tâm hoàn toàn. Nó là, như chính bản thân Kant chỉ ra, một sự pha tạp hoặc một hợp đề, một chút duy thực chủ nghĩa và một chút duy tâm chủ nghĩa – phần tử duy thực chủ nghĩa của nó là nhận định rằng thế giới, như nó xuất hiện trước mắt chúng ta, là một thứ vật chất gì đó được tạo hình hài bởi tâm trí chúng ta, trong khi ngược lại yếu tố duy tâm chủ nghĩa là nhận định rằng thế giới là một thứ vật chất gì đó được tạo hình hài bởi tâm trí chúng ta.
Đấy là nhận thức luận tương đối trừu tượng nhưng tất nhiên lại đầy sáng tạo của Kant. Trước khi tôi chuyển sang Hegel, tôi cầu mong những độc giả (những người tôi ưa thích nhất), những người không phải là các triết gia và đã quen với việc trông cậy vào cảm nhận thông thường của mình để ghi nhớ cái câu tôi chọn làm câu đề dẫn cho bài luận này; vì rằng cái câu mà họ nếu nghe bây giờ có lẽ sẽ là một câu ngớ ngẩn - theo ý kiến của tôi thì đây là thái độ hoàn toàn đúng đắn.
Như tôi đã nói, Hegel với chủ nghĩa duy tâm của mình đã đi xa hơn Kant. Hegel cũng quan tâm tới câu hỏi về nhận thức luận, “Các tâm trí của chúng ta có thể thấu hiểu thế giới như thế nào?” Cùng với các nhà duy tâm chủ nghĩa khác, ông trả lời: “Bởi vì thế giới tựa-như-tâm-trí”. Nhưng lý thuyết của ông cực đoan hơn của Kant. Ông nói, “bởi vì tâm trí là thế giới”; hoặc dưới một dạng khác, “Bởi vì cái hữu lý là có thực; bởi vì hiện thực (reality) và lý tính là đồng nhất”.
Đấy là cái được gọi là “triết lý về sự đồng nhất giữa lý tính và thực tồn” của Hegel, hoặc nói ngắn gọn, “triết lý về sự đồng nhất” của ông. Cần lưu ý rằng giữa các câu trả lời về nhận thức luận của Kant, “Bởi vì tâm trí tạo hình hài cho thế giới”, và triết lý về sự đồng nhất của Hegel, “Bởi vì tâm trí là thế giới”, có một khoảng cách – đó là câu trả lời của Fichte, “Bởi vì tâm trí tạo ra thế giới”.1
Triết lý về sự đồng nhất của Hegel, “Cái gì hữu lý là có thực, và cái gì có thực thì hữu lý; do vậy, lý tính và hiện thực là đồng nhất”, không nghi ngờ gì là một cố gắng hòng tái xác lập chủ nghĩa duy lý trên một nền móng mới. Nó đã cho phép triết gia xây dựng một lý thuyết về thế giới ngoài khuôn khổ của lý tính thuần tuý và để xác lập điều này thì đây phải là một lý thuyết đúng về thế giới thực. Do đó nó đã cho phép chính xác cái theo Kant là bất khả trở thành khả thể. Do đó, Hegel đã có khuynh hướng muốn bác bỏ các lý lẽ của Kant chống lại siêu hình. Ông đã tiến hành điều này với sự trợ giúp của phép biện chứng của ông.
Để hiểu phép biện chứng của ông, một lần nữa chúng ta phải trở lại Kant. Để tránh quá chi tiết, tôi sẽ không bàn về việc xây dựng bảng tam phân các phạm trù của Kant, mặc dù không nghi ngờ gì rằng đây là cái đã truyền cảm hứng cho Hegel.2 Nhưng tôi phải đề cập tới phương pháp của Kant trong việc bác bỏ chủ nghĩa duy lý. Tôi đã đề cập ở trên rằng Kant đã khẳng định rằng phạm vi hiểu biết của chúng ta bị giới hạn bởi khung giới của kinh nghiệm khả thể và rằng lý lẽ thuần tuý vượt ra khỏi khung giới này không có cơ sở biện minh. Trong một phần của cuốn Critique mà ông đặt tiêu đề là “Phép biện chứng siêu nghiệm”, ông đã chỉ ra điều này như sau. Nếu chúng ta muốn xây dựng một hệ thống lý thuyết vượt ra khỏi lý tính thuần tuý – chẳng hạn, nếu chúng ta cố gắng lập luận rằng thế giới tại đó chúng ta sống là không có giới hạn (một ý tưởng hiển nhiên vượt ra khỏi phạm vi kinh nghiệm khả thể) – thì chúng ta có thể làm được việc đó; nhưng chúng ta sẽ lại thấy nhụt trí vì rằng chúng ta có thể luôn lập luận được, với sự trợ giúp của các lý lẽ tương tự, một kết quả đối lập. Nói cách khác, với một chính đề siêu hình như thế được cho trước, chúng ta luôn có thể xây dựng và bảo vệ được một phản đề chính hiệu (exact antithesis); và với bất kỳ lý lẽ nào tán đồng chính đề, chúng ta có thể dễ dàng xây dựng được một lý lẽ đối lập với nó, tức tán đồng phản đề. Và cả hai lý lẽ đều mang trong mình một sức mạnh và độ thuyết phục tương tự nhau – cả hai lý lẽ đều có vẻ có lý ngang nhau, hoặc hầu như ngang nhau. Do vậy, Kant đã phát biểu, lý tính có xu hướng lập luận chống lại chính nó và mâu thuẫn với chính nó, trong trường hợp nó được sử dụng ngoài khung giới của kinh nghiệm khả thể.
Nếu như tôi phải đưa ra một loại tái dựng hiện đại hoặc diễn giải lại Kant, chệch khỏi quan điểm của chính Kant về cái ông đã tiến hành, thì tôi sẽ nói rằng Kant đã chỉ ra được rằng nguyên lý siêu hình về tính hữu lý hoặc tính đúng-tự-thân rõ ràng không dẫn đến một và chỉ một kết quả hay lý thuyết. Luôn có khả năng lập luận, với mức độ có lý dễ thấy tương tự, để bảo vệ một số các lý thuyết khác nhau, và thậm chí các lý thuyết đối lập nhau. Do vậy, nếu chúng ta không có sự trợ giúp từ kinh nghiệm, nếu chúng ta không thể tiến hành các thí nghiệm hoặc các quan sát để ít ra là loại trừ các lý thuyết nhất định – cụ thể là những lý thuyết mà dù là có vẻ hoàn toàn có lý, nhưng lại trái ngược với những thực tế quan sát được – thì chúng ta không có hy vọng giải quyết được các tranh chấp giữa các lý thuyết cạnh tranh lẫn nhau.
Hegel đã vượt qua sự bác bỏ của Kant về chủ nghĩa duy lý như thế nào? Rất dễ dàng, bằng cách khẳng định là các mâu thuẫn không gây ra vấn đề gì cả. Chúng tất phải xuất hiện trong quá trình phát triển của tư duy và lý tính. Chúng chỉ phơi bày ra khiếm khuyết của lý thuyết mà không cân nhắc đến sự thực rằng tư duy, nghĩa là lý tính, và cùng với nó là hiện thực (theo triết lý về sự đồng nhất), không phải là một cái gì đó cố định muôn thủa, mà là đang phát triển – nghĩa là chúng ta sống trong một thế giới tiến hoá. Vì thế theo Hegel thì Kant đã bác bỏ siêu hình học chứ không bác bỏ chủ nghĩa duy lý. Vì rằng cái Hegel gọi là “siêu hình học”, như là thứ đối lập với “phép biện chứng”, chỉ là một hệ thống duy lý mà không xem xét đến yếu tố tiến hoá, vận động, phát triển, và do đó cố gắng hình dung hiện thực như là một cái gì đó ổn định, không vận động, và giải thoát khỏi các mâu thuẫn. Hegel, trong triết lý của ông về sự đồng nhất, luận giải rằng vì lý tính phát triển, thế giới phải phát triển, và vì sự phát triển của tư duy hoặc lý tính là một quá trình biện chứng, thế giới cũng phải phát triển theo các tam đoạn biện chứng.
Do vậy, chúng ta tìm thấy ba hạt nhân trong phép biện chứng của Hegel như sau.
(a) Một nỗ lực thoát khỏi sự bác bỏ của Kant về cái mà Kant gọi là “chủ nghĩa giáo điều” trong siêu hình học.Theo Hegel, sự bác bỏ này chỉ đúng đối với các hệ thống siêu hình học theo nghĩa hẹp hơn của ông, chứ không phải là đối với chủ nghĩa duy lý biện chứng, vốn xét đến sự phát triển của lý tính và do vậy không sợ các mâu thuẫn. Để thoát khỏi sự phê phán của Kant theo hướng này, Hegel dấn thân vào một hành trình cực kỳ nguy hiểm, tất dẫn đến thảm hoạ, do ông lập luận theo cách đại thể như sau: “Kant đã bác bỏ chủ nghĩa duy lý bằng cách nói rằng nó tất dẫn tới các mâu thuẫn. Tôi thừa nhận điều đó. Nhưng rõ ràng là lý lẽ này dựa trên sức mạnh của qui luật về mâu thuẫn: nó bác bỏ chỉ những hệ thống mà chấp nhận qui luật này, nghĩa là những hệ thống cố gắng giải thoát khỏi các mâu thuẫn. Nó không gây nguy hiểm cho một hệ thống như của tôi, vốn được tạo dựng để sống chung với mâu thuẫn – nghĩa là, nó không nguy hiểm đối với một hệ thống biện chứng”. Rõ ràng lý lẽ này dựng lên một chủ nghĩa giáo điều thuộc loại cực kỳ nguy hiểm – một chủ nghĩa giáo điều không còn sợ hãi bất kỳ loại tấn công nào.Vì rằng bất kỳ cuộc tấn công nào, bất kỳ sự phê phán đối với một lý thuyết nào, đều phải dựa trên việc chỉ ra một loại mâu thuẫn nhất định nào đó, hoặc trong bản thân lý thuyết đó hoặc giữa lý thuyết với một số các thực tế, như tôi đã chỉ ra ở trên. Do đó, phương thuốc vượt qua Kant của Hegel có hiệu nghiệm, nhưng đáng tiếc là lại quá liều. Nó khiến cho hệ thống của ông được bảo vệ an toàn khỏi mọi loại phê phán hoặc tấn công và vì thế nó là giáo điều theo một nghĩa rất chi là đặc thù, đến mức tôi thấy cần phải đặt cho nó một cái tên: “chủ nghĩa giáo điều được gia cố” (reinforced dogmatisms). (Cần phải lưu ý rằng các chủ nghĩa giáo điều được gia cố cũng có tác dụng bổ trợ cho các cấu trúc của các hệ thống giáo điều tương tự khác).
(b) Sự mô tả quá trình phát triển của lý tính như là một quá trình biện chứng là một hạt nhân đượm nhiều vẻ đáng tin cậy trong triết học của Hegel. Điều này trở nên rõ ràng nếu chúng ta nhớ lại rằng Hegel sử dụng từ “lý tính” không chỉ theo nghĩa chủ quan, để ám chỉ một năng lực tâm trí nhất định, mà còn theo nghĩa khách quan, để chỉ tất cả các loại lý thuyết, các loại tư tưởng, các loại ý tưởng, và v.v. Vì Hegel là người cho rằng triết học là biểu hiện cao nhất của lập luận, nên trong tâm trí ông, sự phát triển của lập luận đa phần là sự phát triển của tư duy triết học. Và thực sự thì hầu như không ở đâu tam đoạn biện chứng lại có thể thành công hơn khi được áp dụng vào việc nghiên cứu sự phát triển của các triết thuyết, và do đó không có gì ngạc nhiên khi công trình áp dụng thành công nhất của Hegel trong việc áp dụng phương pháp biện chứng là tác phẩm Lịch sử triết học của ông.
Để hiểu được sự nguy hiểm gắn với một sự thành công như thế, chúng ta phải nhớ lại rằng trong thời đại của Hegel – và thậm chí mãi sau này – logic học thường được mô tả và định nghĩa như là lý thuyết về sự lập luận hoặc lý thuyết về quá trình tư duy, và tương ứng, các qui luật cơ bản của logic thường được gọi là “các qui luật của tư duy”. Do đó, hoàn toàn có thể hiểu được việc Hegel, người tin rằng phép biện chứng là một sự mô tả chân thực quá trình lập luận và tư duy trên thực tế của chúng ta, quả quyết rằng ông phải thay đổi logic học để sao cho phép biện chứng trở thành phần quan trọng, nếu không muốn nói là quan trọng nhất, của lý thuyết logic. Điều này tất dẫn đến việc phải loại bỏ “qui luật về mâu thuẫn”, thứ rõ ràng là một trở ngại khủng khiếp đối với việc chấp nhận phép biện chứng. Ở đây chúng ta bắt gặp nguồn gốc của quan điểm cho rằng phép biện chứng là “nền tảng” theo nghĩa nó có thể sánh ngang được với logic học, nó tiến bộ hơn hẳn logic học. Tôi đã phê phán cách nhìn nhận về biện chứng theo kiểu này, và tôi chỉ muốn nhắc lại rằng bất kỳ loại lập luận logic nào, bất kể là trước hay sau Hegel, và bất kể trong khoa học hay trong toán học hay trong bất kỳ lĩnh vực triết học hữu lý thực sự nào, đều luôn dựa trên qui luật về mâu thuẫn. Nhưng Hegel lại viết (Logic, tiết 81, (1)): “Điều tối quan trọng là phải nắm vững và hiểu đúng đắn bản chất của Biện Chứng. Bất cứ ở đâu có sự vận động, bất cứ ở đâu có sự sống, bất cứ ở đâu có một cái gì đó gây ra ảnh hưởng đối với thế giới thực, thì ở đó có sự hiện diện của Biện Chứng. Nó cũng là linh hồn của mọi tri thức được xem là thực sự khoa học”.
Nhưng nếu Hegel coi lập luận biện chứng là một lập luận loại bỏ qui luật về mâu thuẫn, thì dĩ nhiên ông sẽ không thể đưa ra được bất kỳ ví dụ nào về việc áp dụng lập luận kiểu đó trong khoa học. (Có nhiều ví dụ được các nhà biện chứng đưa ra nhưng đều không khá hơn các ví dụ của Engels đã được đề cập ở trên – về ngũ cốc và (-a)2 = a2). Bản thân lập luận khoa học không khi nào lại dựa trên phép biện chứng; chỉ có lịch sử và sự phát triển của các lý thuyết khoa học là có thể được mô tả ở một mức độ nhất định bằng phương pháp biện chứng. Như chúng ta đã biết, thực tế này không thể dùng để biện minh cho việc chấp nhận phép biện chứng như là một cái gì đó có tính nền tảng, bởi vì có thể giải thích được thực tế đó mà không cần phải ra ngoài khỏi phạm vi của logic thông thường nếu chúng ta nhớ lại sự vận hành của phương pháp thử-và-sai.
Hiểm nguy chính của sự nhầm lẫn như thế giữa phép biện chứng và logic học là: như tôi đã nói, nó cho phép người ta lập luận một cách giáo điều. Vì rằng chúng ta quá thường xuyên bắt gặp những nhà biện chứng, khi gặp khó khăn về mặt logic, luôn nói với đối thủ của họ như là một phương sách cuối cùng rằng phê phán của [các đối thủ của] họ là sai bởi vì nó dựa trên logic thông thường thay vì dựa trên phép biện chứng; giá như họ chỉ sử dụng phép biện chứng, họ sẽ thấy rằng các mâu thuẫn mà họ đã phát hiện ra trong một số các lý lẽ nào đó của các nhà biện chứng là hoàn toàn hợp lệ (ấy là từ quan điểm biện chứng).
(c) Hạt nhân thứ ba trong phép biện chứng của Hegel được dựa trên triết lý của ông về sự đồng nhất. Nếu lý tính và hiện thực là đồng nhất và lý tính phát triển một cách biện chứng (như được minh hoạ rất rõ ràng qua sự phát triển của tư tưởng triết học), thì hiện thực cũng phải phát triển một cách biện chứng. Thế giới phải bị trị vì bởi các qui luật của logic biện chứng. (Lập trường này được gọi là “thuyết phiếm logic” – panlogism). Do đó, chúng ta phải tìm thấy trên thế giới các mâu thuẫn giống như những mâu thuẫn được logic biện chứng chấp nhận. Điều này chính xác là vậy vì trên thực tế thế giới ngập tràn các mâu thuẫn, và đây cũng là một lý do nhìn từ một góc độ khác để loại bỏ qui luật về mâu thuẫn. Vì rằng qui luật này phát biểu rằng không có các định đề chứa mâu thuẫn nội tại, không có một cặp các định đề mâu thuẫn nhau nào lại có thể đúng được, nghĩa là, có thể tương ứng với các thực tế. Nói cách khác, qui luật này ngụ ý rằng một mâu thuẫn không khi nào có thể xảy ra trong thế giới thực, nghĩa là trong thế giới của các thực tế (facts), và rằng các thực tế không khi nào lại mâu thuẫn lẫn nhau. Nhưng trên nền tảng của triết lý về sự đồng nhất giữa lý tính và hiện thực, người ta có thể nhận định rằng các thực tế có thể mâu thuẫn lẫn nhau do các ý tưởng có thể mâu thuẫn lẫn nhau và các thực tế phát triển thông qua các mâu thuẫn, giống như là sự phát triển của các ý tưởng; vì thế, qui luật về mâu thuẫn phải bị vứt bỏ.
Tạm rời khỏi cái đối với tôi là sự ngớ ngẩn khủng khiếp của triết lý về sự đồng nhất (điều mà tôi sẽ nói đôi chút phía dưới đây), nếu chúng ta soi sét kỹ lưỡng hơn những thực tế mà được gọi là mâu thuẫn nhau, thì chúng ta thấy rằng tất cả các ví dụ mà các nhà biện chứng cung cấp chỉ chỉ ra rằng cái thế giới mà chúng ta sống đôi lúc thể hiện một cấu trúc nhất định, một cấu trúc mà có lẽ có thể được mô tả bằng từ “đối cực” (polarity). Một ví dụ của cấu trúc này có lẽ là sự tồn tại của điện dương và âm. Việc nói rằng, chẳng hạn, điện dương và điện âm mâu thuẫn lẫn nhau chỉ là một kiểu nói ẩn dụ và lỏng lẻo. Một ví dụ về một mâu thuẫn thực sự có lẽ là hai câu sau: “Vào ngày 1 tháng 11 năm 1938, trong khoảng từ 9 h tới 10h sáng, vật thể này ở chỗ này đã tích điện dương”, và một câu tương tự về cùng một vật thể, nói rằng đồng thời nó không bị nhiễm điện dương.
Đấy có lẽ là một mâu thuẫn giữa hai câu và thực tế đối lập tương ứng có lẽ là sự thực rằng một vật thể, như là một tổng thể, tại cùng một thời điểm vừa nhiễm điện dương vừa không nhiễm điện dương, và do đó, tại cùng một thời điểm vừa hút và vừa không hút các vật thể bị nhiễm điện âm nhất định nào đó. Nhưng chúng ta không có quyền nói rằng các thực tế mâu thuẫn nhau như thế tồn tại. (Một phân tích sâu hơn có lẽ chỉ ra rằng sự không tồn tại của các thực tế như thế không phải là một qui luật giống như các qui luật vật lý, mà là qui luật được dựa trên logic học, nghĩa là, dựa trên các qui tắc chi phối việc sử dụng ngôn ngữ khoa học).
Tóm lại, có ba điểm: (a) Sự đối lập của phép biện chứng với tư tưởng chống chủ nghĩa duy lý của Kant, và hệ quả là sự tái thiết lập chủ nghĩa duy lý được củng cố bởi một chủ nghĩa giáo điều được gia cố; (b) Việc lồng phép biện chứng vào logic học, được xây dựng dựa trên nền tảng về sự mơ hồ của các biểu ngữ như “lý tính”, “các qui luật về tư duy”, và v.v.; (c) Việc áp dụng phép biện chứng cho toàn bộ thế giới, dựa trên thuyết phiếm logic của Hegel và triết lý về sự đồng nhất của ông. Ba điểm này đối với tôi là ba hạt nhân chính của phép biện chứng Hegel. Trước khi tiếp tục khảo lược nghiệp chướng của phép biện chứng sau Hegel, tôi muốn bày tỏ ý kiến cá nhân của tôi về triết học của Hegel, và đặc biệt là triết lý của ông về sự đồng nhất. Tôi nghĩ nó là một lý thuyết tồi tệ nhất trong số tất cả các lý thuyết ngớ ngẩn và nhảm nhí mà Descartes đề cập đến trong câu tôi chọn làm đề dẫn cho bài luận này. Không chỉ là việc triết lý về sự đồng nhất được đưa ra mà chẳng dựa trên bất kỳ một lý lẽ nghiêm túc nào; mà ngay cả vấn đề đã khiến nó được phát minh ra để giải đáp – câu hỏi, “Tâm trí của chúng ta có thể thấu hiểu thế giới như thế nào?” – đối với tôi cũng hoàn toàn không được thiết lập một cách rõ ràng. Và câu trả lời duy tâm chủ nghĩa, dù có khác nhau giữa những triết gia duy tâm khác nhau nhưng về cơ bản vẫn không đổi, cụ thể là “Bởi vì thế giới tựa-như-tâm-trí”, chỉ là hình dáng bên ngoài của một câu trả lời [đích thực]. Chúng ta sẽ thấy rõ ràng rằng đấy không phải là một câu trả lời thực sự nếu chúng ta vẫn chỉ xem xét một lý lẽ tương tự nào đó, chẳng hạn: “Chiếc gương này có thể phản chiếu khuôn mặt tôi như thế nào?” – “Bởi vì nó tựa-như-khuôn-mặt”. Mặc dù loại lý lẽ này hiển nhiên không thể nào ngửi được, nó đã được tái hiện liên tục. Chẳng hạn, chúng ta thấy nó đã được tạo dựng bởi Jeans trong thời đại của chúng ta theo mô-tuýp như sau: “Toán học có thể thấu hiểu thế giới như thế nào?” – “Bởi vì thế giới tựa-như-toán-học”. Do đó, ông lập luận rằng hiện thực mang bản chất của toán học – nghĩa là thế giới là một tư duy toán học (và do vậy lý tưởng). Lý lẽ này hiển nhiên không khá hơn lý lẽ sau: “Ngôn ngữ có thể mô tả thế giới như thế nào?” – “Bởi vì thế giới tựa-như-ngôn-ngữ – nó thuộc ngôn ngữ”, và không khá hơn: “Ngôn ngữ tiếng Anh có thể mô tả thế giới như thế nào?” – “Bởi vì thế giới tựa-như-tiếng-Anh từ trong bản chất”. Dễ dàng thấy được rằng cái lý lẽ cuối cùng thực sự tương tự như lý lẽ do Jeans đưa ra nếu như chúng ta nhận ra được rằng mô tả toán học về thế giới chỉ là một phương cách nhất định để mô tả thế giới, ngoài ra không còn vai trò gì khác, và rằng toán học cung cấp cho chúng ta một phương tiện để mô tả – một ngôn ngữ thực sự phong phú.
Có lẽ hầu như ai cũng có thể chỉ ra điều này một cách dễ dàng thông qua sự trợ giúp của một ví dụ thông thường. Có những ngôn ngữ tiền sử không sử dụng các con số, mà chỉ thể hiện các ý tưởng số học thông qua các biểu ngữ thể hiện các con số một, hai, và nhiều. Rõ ràng rằng một ngôn ngữ như thế không có khả năng mô tả một số các mối quan hệ tương đối phức tạp giữa những nhóm khách thể nhất định, mà có thể được mô tả một cách dễ dàng nếu có các biểu ngữ chỉ con số “ba”, “bốn”, “năm”, và v.v. Có thể nói A có nhiều cừu, và nhiều hơn B, nhưng không thể nói A có 9 con cừu và nhiều hơn B 5 con. Nói cách khác, các biểu tượng toán học được đưa vào trong một ngôn ngữ nhằm để mô tả những mối quan hệ tương đối phức tạp nhất định mà không thể mô tả bằng cách thức khác; một ngôn ngữ chứa đựng các biểu ngữ số học về các số thực đơn giản là phong phú hơn một ngôn ngữ mà thiếu đi các biểu tượng đáng có này. Tất cả những gì chúng ta có thể nói về bản chất của thế giới từ thực tế là chúng ta phải sử dụng ngôn ngữ toán học để có thể mô tả được thế giới là: thế giới có một mức độ phức tạp nhất định, đến mức có những mối quan hệ nhất định trong thế giới không thể mô tả được bằng các công cụ mô tả quá nguyên sơ.
Jeans hẳn đã cảm thấy bức xúc về cái thực tế là thế giới của chúng ta diễn ra phù hợp với các công thức toán học được phát minh trước tiên bởi các nhà toán học thuần tuý, những người đã không hề có ý định gì trong việc áp dụng các công thức của họ cho thế giới. Hình như ông đã khởi đầu với tư cách mà tôi gọi là một “nhà qui nạp chủ nghĩa”; nghĩa là, ông nghĩ rằng các lý thuyết được thu lượm từ kinh nghiệm nhờ một qui trình suy luận ít nhiều giản đơn nào đó. Nếu một người khởi đầu từ một vị trí như thế, hiển nhiên anh ta sẽ thấy ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng một lý thuyết mà được tạo dựng bởi các nhà toán học thuần tuý, theo một phương thức thuần tuý tư biện, sau đó lại cho thấy có khả năng áp dụng được cho thế giới vật chất. Nhưng đối với những ai không phải là những nhà qui nạp chủ nghĩa, thì điều này không hề ngạc nhiên chút nào. Họ biết rằng thường xuyên xảy ra trường hợp một lý thuyết được đưa ra lúc ban đầu chỉ như là một tư biện thuần tuý, một khả thể đơn thuần, nhưng sau này lại có các ứng dụng thực nghiệm. Họ biết rằng chính sự dự đoán tư biện này mới thường chính là thứ lát đường cho các nghiên cứu thực nghiệm. (Theo cách này vấn đề qui nạp, nếu có thể gọi như vậy, chứa đựng vấn đề của chủ nghĩa duy tâm mà chúng ta quan tâm ở đây).
(Xem tiếp Phần 3)
Chú thích:
1Câu trả lời này không phải là mới, bởi vì Kant đã cân nhắc đến nó trước đó; nhưng tất nhiên Kant đã bác bỏ nó.
2MacTaggart đã coi điểm này như là trọng tâm của tác phẩm hấp dẫn của ông Studies in Hegelian Dialectic.