[Nhập môn về chủ nghĩa tư bản] - Chương 6: Điều gì làm cho chủ nghĩa tư bản thành công?
Như chúng ta đã thấy, có một số hiện tượng không phải chỉ có chủ nghĩa tư bản mới có, hay thậm chí là cốt lõi của nó, nhưng người ta thường liên kết với chủ nghĩa tư bản vì những hiện tượng này chắc chắn có đóng góp vào sự thành công của nó. Trong số đó có tính tư lợi, sở hữu tư nhân, hòa bình, lợi nhuận, cạnh tranh, chuyên môn hóa và thị trường.
Tính tư lợi, tài sản, lợi nhuận và động cơ
Tư lợi. Chủ nghĩa tư bản được thúc đẩy bởi lợi ích cá nhân, nhưng nó cũng trừng phạt thói tham lam. Tư lợi khác hẳn với tham lam.
Tham lam ám chỉ hành động vì lợi ích của bản thân, mà không quan tâm đến lợi ích hay cảm xúc của người khác, thậm chí có thể là không thèm quan tâm đến các luật lệ, quy định và quy ước hiện hành. Tham lam cũng ám chỉ việc tích cóp tiền tài/đồ vật chỉ vì muốn tích cóp, bất chấp nhu cầu của chính mình. Nhưng chủ nghĩa tư bản chỉ có thể có hiệu quả khi mọi người đều tuân theo luật lệ, đối xử công bằng với nhau và tôn trọng lời hứa. May mắn là, nhờ việc nhiều người mua và người bán khác nhau cạnh tranh với nhau, cho nên kẻ dối trá hoặc gian lận trong kinh doanh sẽ nhanh chóng bị khách hàng và nhà cung cấp xa lánh. Muốn thịnh vượng thì chỉ có một cách: cung cấp cho người khác những sản phẩm mà họ mong muốn. Không những không coi thường nhu cầu của người khác, mà chủ nghĩa tư bản buộc chúng ta phải tìm hiểu và phục vụ nhu cầu của họ.
Ngược lại, tư lợi là đặc tính tự nhiên của con người, nếu không tư lợi thì không có người nào có thể tồn tại được. Câu hỏi mang tính đạo đức là, làm sao kiềm chế nó và hướng nó vào việc xây dựng được xã hội hoạt động hiệu quả, chứ không phải là một mớ hỗn loạn của những cá nhân tự tư tự lợi. Một lần nữa, may mắn là, chủ nghĩa tư bản sử dụng lợi ích cá nhân nhằm mang lại lợi ích của tất cả mọi người.
Tư lợi có nghĩa là mọi người đều theo đuổi mục đích, tầm nhìn, mục tiêu và tham vọng của riêng mình, chứ không phải những thứ bị người khác áp đặt. Họ theo đuổi những giấc mơ của mình không chỉ vì lợi ích cá nhân, mà còn vì lợi ích của gia đình và của những người mà họ yêu thương và quan tâm. Họ hợp tác với những người khác, ví dụ như trong buôn bán, làm ăn, khi hợp tác mang lại lợi ích chung cho cả hai bên. Trong khi động cơ có thể là tư lợi, nhưng nó không ám chỉ rằng kết quả là không đáng mong muốn. Ngược lại, hợp tác thông qua buôn bán mang lại kết quả mà về mặt xã hội, nói chung, là có lợi - như Adam Smith đã giải thích trong ý tưởng về “Bàn tay vô hình” của ông.
Sở hữu tư nhân. Không chỉ trong chủ nghĩa tư bản mới có sở hữu tư nhân, nhưng đây là điều kiện cần nếu muốn nó hoạt động hiệu quả. Thật bất ngờ là, sở hữu tư nhân thúc đẩy tinh thần lao động cần cù, tôn trọng lẫn nhau, trung thực và tin tưởng.
Có một thực tế là, người ta chăm sóc tài sản của mình hơn là tài sản của người khác. Chẳng hạn, ở nhiều nước, không ai quan tâm tới cầu thang và khu sinh hoạt cộng đồng trong các khu chung cư, những khu vực này thường xuống cấp, mặc dù chính các căn hộ thì được chủ nhà giữ gìn khá đẹp.
Sở hữu tư nhân cũng mang lại cho người ta nhiều giá trị - vì lợi ích của chính mình và xã hội. Các trang trại tập thể của nước Nga Xô viết hay của Trung Quốc dưới thời Mao sản xuất được rất ít, cái duy nhất chúng tạo ra được là nạn đói trên cả nước, trong khi các trang trại tư nhân ở các nước tư bản được người ta quản lý cẩn thận nhằm tạo ra sản lượng cao nhất có thể. Các đại dương trên thế giới, không thuộc sở hữu của bất kỳ ngươi nào, đã bị đánh bắt quá mức; trong khi các chủ sở hữu tư nhân bảo vệ nghiêm ngặt nguồn cá hồi bơi vào các dòng sông của Scotland, cuộc sống của những người này phụ thuộc vào việc lúc nào cũng có sẵn cá hồi cho những người câu cá giải trí.
Muốn cho người ta bảo vệ, nuôi dưỡng và khai thác giá trị của tài sản, thì phải làm cho họ tự tin vào quyền sở hữu của mình. Phải có những luật lệ rõ ràng về các quyền tài sản, những việc mà người ta có thể làm với tài sản của mình, những lợi ích có thể thu được từ tài sản và cách thức chuyển giao tài sản cho người khác. Những thỏa thuận về việc mua hay bán tài sản - không chỉ đất đai hay hàng hoá vốn mà mua bán bất kỳ hàng hóa hoặc dịch vụ nào khác - đều phải rõ ràng và được mọi người tôn trọng. Phải ngăn chặn mọi hành động trộm cắp và gian lận, cũng có nghĩa là phải có hệ thống tư pháp và tìm cách trả lại cho người bị hại nếu xảy ra hiện tượng trộm cắp và gian lận. Chỉ có làm như thế thì người ta mới có thể thực hiện các cam kết giao dịch trong tương lai hoặc đầu tư vào doanh nghiệp có thể gặp rủi ro và phải mất nhiều năm mới thu được kết quả. Chủ nghĩa tư bản chỉ có thể hoạt động trong thế giới như thế.
Và tất nhiên, các cơ quan công quyền cũng phải tuân theo chế độ pháp quyền như tất cả các thực thể khác. Những cơ quan này không thể sử dụng quyền lực chính trị hoặc tư pháp nhằm ủng hộ một số nhóm hay bóp méo thị trường để đạt được một số mục tiêu sắp đặt từ trước; làm như thế có thể tạo ra nguy cơ đưa thị trường vào tình trạng hỗn loạn và phá hủy mạng lưới phức tạp, nhưng hiệu quả của quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Lợi nhuận. Lợi nhuận cũng không phải là hiện tượng chỉ xuất hiện trong chủ nghĩa tư bản. Trên thực tế, chúng ta tìm kiếm lợi nhuận từ tất cả các hoạt động mà chúng ta tham gia, vì có nhiều loại lợi nhuận chứ không chỉ lợi nhuận bằng tiền. Dù làm bất cứ việc gì, chúng ta đều hy vọng rằng lợi ích thu được sẽ lớn hơn thời gian và công sức mà chúng ta đã bỏ ra. Có đáng leo lên núi để nhìn phong cảnh? Bạn có học được điều gì thực sự hữu ích khi ngồi nghe hết một bài giảng hay không? Nếu gặt hái được điều gì đó thì bạn đã được lợi rồi.
Ngay cả trong thương mại, lợi nhuận cũng không chỉ là tiền. Chắc chắn là hầu hết mọi người đều tham gia kinh doanh để kiếm tiền – không nhất thiết là để làm giàu, mà là kiếm tiền để nuôi thân và nuôi gia đình mình. Tuy nhiên, không ai muốn làm việc này với giá phải trả là đau khổ hay mệt mỏi liên tục. Đấy là mất mát. Trong số những lợi ích không tính được bằng tiền mà những người khác nhau tìm kiếm trong hoạt động kinh tế là niềm tự hào về công việc của mình, cơ hội giải trí và ý nghĩ cho rằng mình đang làm điều gì đó hữu ích nhằm giúp đỡ những người khác. Có lẽ đối với hầu hết chúng ta, sự mãn nguyện mà chúng ta có được từ những việc làm như thế có giá trị hơn là tiền bạc.
Người ta thường nói rằng lợi nhuận tính bằng tiền mà các doanh nhân tư bản thu được là từ tiền lương của công nhân, do bóc lột mà ra. Nhưng, các nhà khởi lập nghiệp không sử dụng bất cứ lao động nào vẫn có thể kiếm được lợi nhuận, hiện tượng này dường như bác bỏ lập luận vừa nói. Thứ hai, không có người nào bị buộc phải làm việc cho một nhà khởi lập nghiệp cụ thể: thế thì tại sao người ta phải chấp nhận công việc mà họ bị bóc lột? Người lao động có thể dễ dàng chuyển sang làm việc cho người sử dụng lao động khác, hoặc làm việc cho chính mình.
Thứ ba, và quan trọng nhất, lập luận vừa nói bỏ quên thực tế là lợi nhuận và giá trị là do con người tạo ra. Không có cái hũ lợi ích với dung lượng cố định, nơi các nhà khởi lập nghiệp (entrepreneur) có thể thò tay vào lấy bằng cách phỉnh nịnh người lao động bỏ tay ra. Giá trị tồn tại trong đầu óc của chúng ta, chứ không tồn tại trong các sự vật: một người có thể coi một chiếc bình cụ thể là vô giá trong khi người kia coi nó là đồ bỏ. Và chính xác là, vì người ta đánh giá các đồ vật theo những cách khác nhau, cho nên họ mới có thể trao đổi và mỗi người đều coi mình là người được lợi. Nhà khởi lập nghiệp không chiếm đoạt giá trị của nhân viên, mà tạo ra giá trị bằng cách quản lý năng lực của họ nhằm tạo ra những sản phẩm mới.
Lợi nhuận khởi lập nghiệp. Nhà khởi lập nghiệp có thể thu được lợi nhuận từ nhiều nguồn khác nhau. Ví dụ, từ việc kinh doanh dựa trên sự khác biệt trong đánh giá của mọi người về mọi thứ hàng hóa, hoặc từ việc sắp xếp một cách khéo léo đầu vào, lao động, quy trình sản xuất, tiếp thị và phân phối nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng một cách hiệu quả hơn. Hoặc phát hiện ra những cơ hội mà những người khác bỏ qua.
Ví dụ, một số nhà khởi lập nghiệp kiếm được lợi nhuận bằng cách phát hiện ra nhu cầu tiềm năng mà những người khác không nhìn thấy – như Sony đã làm với máy nghe nhạc cá nhân Walkman hoặc Starbucks đã làm với các cửa hàng cà phê chuyên biệt của mình. Đôi khi, các nhà khởi lập nghiệp có thể thu được lợi nhuận bằng cách phát minh ra công nghệ mới, như Eli Whitney với máy tách hạt bông và Thomas Edison với bóng đèn sợi đốt. Những nhà khởi lập nghiệp khác thu được lợi nhuận bằng cách áp dụng công nghệ hiện có nhằm tạo ra các sản phẩm và quy trình mới, như James Dyson với máy hút bụi và Apple với những chiếc iPhone.
Các nhà khởi lập nghiệp có thể làm cho khách hàng cảm thấy thuận lợi hơn, như Amazon với mua hàng trực tuyến, hoặc phát triển các thị trường và cách thức hoạt động hoàn toàn mới, như Uber, AirBnB và nhiều ứng dụng “kinh tế chia sẻ” khác. Và cải cách quy định cũng có thể tạo ra những cơ hội khởi lập nghiệp mới. Ví dụ, các mạng điện thoại di động đã phát triển nhanh chóng sau khi người ta xóa bỏ độc quyền của Công ty Điện thoại Bell ở Mỹ và British Telecom ở Anh.
Không nghi ngờ gì rằng, một số người đã tạo được cơ đồ do những sự tình cờ đầy may mắn, tạo ra hoặc khám phá ra một thứ gì đó thu hút trí tưởng tượng của công chúng và trở thành người thành công vang dội. Có một số người thỉnh thoảng lại phát hiện được rằng bức tranh mà họ mua được ở một cửa hàng đồng nát thực sự là một Kiệt Tác. Nhưng sẽ là sai lầm nếu nghĩ rằng lợi nhuận khởi lập nghiệp thuần khiết như thế, như cách người ta vẫn gọi, chỉ là may mắn và không xứng đáng. Hầu hết các nhà khởi lập nghiệp đều thực sự làm việc hết mình thì mới giành được thành công, họ còn phải dành thời gian và sức lực nhằm quảng bá sản phẩm của mình. Họ thất bại và bị từ chối, nhưng vẫn tiếp tục cho đến khi thành công: mười hai nhà xuất bản đã từ chối xuất bản cuốn tiểu thuyết Harry Potter đầu tiên của J. K. Rowling trước khi Bloomsbury chấp nhận cho in – mà không kỳ vọng nhiều vào thành công của cuốn sách này.
Động cơ khuyến khích. Do đó, lợi nhuận khởi lập nghiệp ít khi là do may mắn, hay thậm chí chủ yếu là may mắn: đó là theo đuổi một cách tích cực, đòi hỏi những khoản đầu tư có tầm nhìn, trí tuệ, thời gian, nỗ lực, kỹ năng, chấp nhận rủi ro và kiên trì. Hầu hết những nỗ lực như thế đều thất bại: nhưng những nỗ lực mang lại thành công sẽ cải thiện đời sống của tất cả mọi người và tạo ra nền tảng cho những tiến bộ tiếp theo.
Một nền văn hóa pháp lý, chính trị và xã hội khuyến khích và tưởng thưởng hoạt động khởi lập nghiệp (entrepreneurship) cũng như những khoản đầu tư và phẩm chất cá nhân trở thành cực kì quan trọng. Trước hết là bảo đảm hòa bình và chế độ pháp quyền, để các nhà khởi lập nghiệp biết rằng họ có thể tự tin khi đầu tư, sự nghiệp của họ không bị phá hủy hoặc công trình sáng tạo của họ không bị những người khác chiếm đoạt – không chỉ quân đội nước ngoài và bọn tội phạm trong nước, mà cả chính phủ của họ. Ví dụ, vì rủi ro thất bại đã khá cao, các nhà khởi lập nghiệp dễ nản lòng khi thuế má cao và những quy định hà khắc, làm cho rủi ro và chi phí của họ gia tăng hơn nữa.
Quá trình cạnh tranh
Một hiện tượng khác làm cho chủ nghĩa tư bản trở thành năng động là cạnh tranh. Muốn vượt trước đối thủ cạnh tranh và ngăn khách hàng chuyển sang mua hàng của người khác, các nhà sản xuất phải thường xuyên đổi mới và cải thiện những những món hàng mà họ cung cấp, cũng như quy trình sản xuất ra những sản phẩm đó.
Các cuốn sách giáo khoa kinh tế học ít khi giải thích tác động mang tính động lực này của cạnh tranh. Sách giáo khoa thường nói về “cạnh tranh hoàn hảo” – trạng thái lý thuyết, trong đó rất nhiều người mua và người bán giống hệt nhau, mua và bán những món hàng hóa giống hệt nhau. Nhưng trên thực tế, người mua và người bán đều là những người khác nhau. Không những không bán những sản phẩm giống hệt nhau, mà người bán tìm cách làm cho chúng khác nhau – nhằm cung cấp cho người mua món hàng độc đáo và hấp dẫn hơn là đối thủ cạnh tranh với mình.
Thật không may là, ý tưởng “cạnh tranh hoàn hảo” phổ biến đến mức ngay cả những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản thường cũng không hiểu được cạnh tranh thực sự là như thế nào; trong khi thuật ngữ “hoàn hảo” gây hiểu lầm, làm cho những người chỉ trích chủ nghĩa tư bản (thậm chí chỉ trích một cách thân thiện) nghĩ rằng chính phủ phải can thiệp để thị trường ngày càng “hoàn hảo” hơn.
Nhưng thị trường trong đời thực không bao giờ nằm trong trạng thái cân bằng “hoàn hảo”: cạnh tranh là quá trình điều chỉnh, đổi mới sáng tạo và thường xuyên cải tiến, đó là lợi ích to lớn mà cạnh tranh mang lại cho chúng ta. Khi các nhà khởi lập nghiệp tìm cách đáp ứng nhu cầu đang thay đổi của chúng ta, các sản phẩm và quy trình mới sẽ thay thế những sản phẩm và quy trình ít hiệu quả hơn. Người tiêu dùng, chứ không phải các quan chức, chính là những người thúc đẩy tiến trình đầy năng động này. Nỗ lực của các quan chức nhằm làm cho thị trường trở thành “hoàn hảo” chỉ đơn giản là đẩy chúng vào giậm chân tại chỗ ở một trạng thái nào đó; nhưng trong điều kiện cạnh tranh thực sự, khách hàng liên tục đòi hỏi nhà sản xuất phải cung cấp hàng hóa ngày càng tốt, đến lượt mình, nhà sản xuất lại tích cực tìm kiếm những quy trình sản xuất ngày càng tốt hơn để có thể cung cấp cho người tiêu dùng.
Một số hoạt động kinh doanh có thể không tồn tại được trong quá trình này. Nhưng cạnh tranh trên thương trường không phải là cạnh tranh trong lĩnh vực sinh học, nguồn lực trong tự nhiên là cố định, sống chết phụ thuộc vào việc sinh vật nào giành được những nguồn lực này. Cạnh tranh trên thương trường tạo ra nguồn lực và làm cho tổng giá trị ngày càng lớn lên. Vì các hoạt động kinh doanh phải đối mặt với những cuộc kiểm tra diễn ra mỗi ngày trên thương trường, cho nên chúng phải tiếp tục chuyển đổi các nguồn lực từ sử dụng với giá trị thấp sang sử dụng với giá trị cao hơn. Không có người nào chết: chúng chỉ phải làm khác trước mà thôi.
Chuyên môn hóa và thị trường
Chuyên môn hóa và lợi ích do nó tạo ra. Hàng hoá vốn có thể rất chuyên dụng. Nhiều hàng hoá vốn chỉ để làm ra một sản phẩm hay thành phần sản phẩm cụ thể nào đó mà thôi. Trong một số trường hợp, chúng có thể tạo ra các sản phẩm hay linh kiện nhanh hơn hoặc rẻ hơn hàng nghìn lần. Ví dụ, hàng hoá vốn tạo điều kiện cho con người khai thác và nấu chảy thép, đúc và hoàn thiện các bộ phận của động cơ, và hàng nghìn chiếc ô tô được lắp ráp nhanh hơn và rẻ hơn hẳn so với làm bằng tay. Các kỹ năng cũng được chuyên môn hóa: thợ trang trí, thợ lợp mái nhà, thợ lắp kính, thợ điện và thợ sửa ống nước có thể bảo dưỡng nhà cửa và làm các dịch vụ tốt hơn và an toàn hơn hẳn so với chúng ta tự làm, trong khi các bác sĩ chuyên khoa có thể biết nhiều về bệnh tật của chúng ta, hơn hẳn những bác sĩ không phải chuyên khoa.
Người bình thường không thể biết hết mọi thứ về tình trạng sức khỏe, hay cách tốt nhất để sơn nhà ở hay sửa máy giặt; cũng không phải ai cũng có thể có những thiết bị cần cho quá trình chế tạo ô tô. Thật vậy, sẽ rất lãng phí nếu mỗi chúng ta đều cố gắng làm như thế. Thay vào đó, những người có chuyên môn - cả về kỹ năng lẫn hàng hoá vốn mà họ có - làm cho tất cả chúng ta đều được lợi. Xe ô tô, đồng hồ, kiểu tóc và tất cả những thứ khác mà chúng ta muốn có rẻ hơn và tốt hơn là do những người có tay nghề cao làm ra.
Các thị trường. Trên thực tế, chuyên môn hóa làm cho năng suất trong chủ nghĩa tư bản cao đến mức người ta phải nhanh chóng tìm cho ra biện pháp phân phối hiệu quả tương ứng tất cả hàng hóa và dịch vụ mà nó sản xuất ra. Đây là lý do vì sao các thị trường phát triển cùng với chủ nghĩa tư bản. Các thị trường tạo điều hiện cho chúng ta trao đổi số hàng hóa thặng dư to lớn mà chúng ta có thể sản xuất được và cũng được hưởng lợi do thành quả mà năng suất của người khác mang lại.
Trao đổi trên thị trường diễn ra là vì cùng một loại hàng hóa hay dịch vụ, nhưng những người khác nhau lại đánh giá khác nhau. Giá trị không phải là phẩm chất có tính khách quan của sản phẩm, ví dụ như trọng lượng hay kích thước: giá trị chỉ tồn tại trong tâm trí của người chứng kiến. Sau khi đổi một thứ mà chúng ta đánh giá thấp hơn để lấy một thứ mà chúng ta đánh giá cao hơn, trực tiếp hoặc bằng tiền, chúng ta coi mình là người hưởng lợi hơn – người mà chúng ta trao đổi cũng nghĩ như thế. Mặc dù vụ trao đổi không tạo ra hàng hóa mới, nhưng nó đã làm gia tăng tổng giá trị mà chúng ta có.
Trao đổi là đặc biệt quan trọng, nếu tính đến năng suất cực kì cao của chủ nghĩa tư bản. Ví dụ, nông dân trồng ngũ cốc, sử dụng các phương pháp cày cấy, gieo hạt và thu hoạch được cơ giới hóa trên quy mô lớn, tự mình chỉ có thể tiêu dùng một phần nhỏ lúa mì hoặc lúa mạch mà họ sản xuất được và chỉ đánh giá giá trị của vụ thu hoạch bằng số tiền mà anh ta thu được trên thị trường. Người thợ gốm cũng thế, anh ta chỉ sử dụng một ít cốc và bát được đưa ra khỏi bàn xoay mỗi ngày mà thôi. Người sản xuất ô tô, thợ đóng giày, người vẽ trang thủy mạc lành nghề hay chủ nhà hàng thì cũng thế. Nhưng thị trường đưa tất cả các sản phẩm của họ đến tay những khách hàng đánh giá chúng cao hơn.
Trao đổi là hiện tượng lâu đời; nhưng khi các thị trường phát triển và được thiết lập, tỷ lệ trao đổi giữa các sản phẩm khác nhau, tức giả cả của chúng, được nhiều người biết đến và có thể dự đoán được. Chính hiện tượng này đã mang lại lợi ích cho tất cả mọi người, vì nó cung cấp cho chúng ta ý tưởng tốt hơn về việc đầu tư nguồn lực của chúng ta vào đâu thì khả năng sinh lời là cao nhất. Nó cũng giúp cho các nhà sản xuất thu được giá cao nhất: chẳng hạn như điện thoại thông minh phổ biến rộng khắp có nghĩa là những người nông dân sản xuất nhỏ ở ngay cả những vùng xa xôi nhất trên thế giới cũng có thể theo dõi thị trường thực phẩm quốc tế để chắc chắn rằng những người bán buôn cung cấp cho họ cây giống với giá cả hợp lý. Và việc theo dõi các thị trường tương lai sẽ giúp họ quyết định nên trồng cây gì và trồng khi nào để có triển vọng thu được lợi nhuận cao nhất.
Các thị trường được điều chỉnh bằng luật lệ và quy ước, nhưng phải thích ứng với nhu cầu đang thay đổi của người tiêu dùng. Chúng cần xử lý các sản phẩm và quy trình mới, chẳng hạn như các ứng dụng kinh tế chia sẻ. Toàn bộ quá trình đổi mới sáng tạo đều đặt ra những thách thức đối với những người quản lý thị trường: có thể có những lo ngại chính đáng về an toàn, liên quan đến việc liệu các sản phẩm mới có nên được giao dịch hay không, hoạt động vận động hành lang của những người đang bán những sản phẩm tương tự lo sợ bị cạnh tranh càng làm gia tăng mối lo ngại như thế. Nhưng giữ cho thị trường cởi mở cũng mang lại lợi ích, đặc biệt là khi những nhà cung cấp có thể được đánh giá trực tuyến (online) ngay lập tức và dễ dàng. Chỉ khi tạo điều kiện cho đổi mới sáng tạo, chúng ta mới có thể có được tiến bộ.
Chủ nghĩa tư bản và nhà nước
Những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản khẳng định rằng, nhà nước không nên sở hữu hay hướng dẫn người dân sử dụng hàng hoá vốn. Họ cho rằng các chính trị gia và công chức bị những lợi ích chính trị hạn hẹp, chứ không phải nhu cầu rộng lớn của người tiêu dùng chi phối. Bất quá, nhà nước chỉ nên bảo vệ các nguyên tắc làm cho chủ nghĩa tư bản hoạt động – các quyền cá nhân, công bằng và hợp tác phi bạo lực. Muốn làm được việc đó, nhà nước cần lực lượng cưỡng chế của mình – cảnh sát, quân đội, tòa án và nhà tù. Nhưng tất cả quyền lực đều bị tha hóa và là con mồi của những nhóm lợi ích thâm căn cố đế, vì vậy quyền lực của chính phủ phải bị hạn chế.
Những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản khẳng định rằng, các cá nhân có thể tự mình quyết định hầu hết mọi việc, nhưng đối với các dự án mang tính tập thể - chẳng hạn như quốc phòng, sân bay và đường xá mới – dân chủ là biện pháp hợp lý trong việc ban hành quyết định. Họ cũng cho rằng, dân chủ là biện pháp kiềm chế ôn hòa và, khi cần thiết, loại bỏ những người lạm dụng quyền lực mang tính cưỡng chế của nhà nước.
Nhưng muốn phát huy tác dụng, chính chế độ dân chủ cũng phải có giới hạn. Dân chủ không phải là biện pháp tốt trong việc quyết định mọi thứ; nó thậm chí còn đưa chính trị vào những quyết định mà chúng ta không thể thực hiện theo bất kỳ cách nào khác. Dân chủ cũng không có nghĩa là đa số 51% có thể quyết định mọi khía cạnh trong đời sống của thiểu số 49%, hoặc đa số bóc lột thiểu số theo ý mình: dân chủ đòi hỏi nền văn hóa khoan dung và tự kiềm chế. Cả công dân lẫn chính trị gia đều phải hiểu những giới hạn này; nhưng người ta thường tự hào thái quá về những thành tựu của chế độ dân chủ đến mức nghĩ rằng nhiều thứ khác cũng nên được quyết định theo lối dân chủ. Thật không may là, điều đó có nghĩa là phải quyết định bằng con đường chính trị nhiều thứ hơn nữa – nó sẽ tạo ra căng thẳng và xung đột và làm cho tất cả chúng ta trở thành đối tượng bị đa số bóc lột.
Hiến pháp có thể giúp giữ cho chế độ dân chủ tập trung vào các chức năng mà nó thực hiện tốt và bảo vệ các nhóm thiểu số. Muốm làm được như thế, hiến pháp cần được được nhiều người hỗ trợ và ổn định trong thời gian tương đối dài; và muốn sửa đổi hiến pháp thì cần được siêu đa số (supper-majority) ủng hộ. Nhưng không có văn kiện nào có thể đảm bảo các quyền cá nhân và bảo vệ các thể chế để cho chủ nghĩa tư bản hoạt động. Chỉ có trái tim, khối óc, đạo đức, văn hóa và thái độ khoan dung mới có thể làm được điều đó.
Nguồn: Eamonn Butler, "An introduction to capitalism", The Institute of Economic Affairs, 2024. Phạm Nguyên Trường dịch, Đinh Tuấn Minh hiệu đính.
