Những luận cương liên bang (Phần 25)
VI. NGÀNH TƯ PHÁP
1. Các tòa án liên bang và các tòa án tiểu bang
HAMILTON
Sự thành lập một chính phủ mới, dù cẩn thận và khôn ngoan đến thế nào cũng vẫn không thể dẹp hết tất cả những thắc mắc, nghi vấn phức tạp. Những nghi vấn đó nhất định đã được nêu lên rất nhiều, nhất là về Hiến pháp của một quốc gia đã được thành lập trên căn bản của sự liên kết vừa toàn diện vừa từng phần của nhiều quốc gia có đầy đủ chủ quyền. Lần này, sự liên kết của những quốc gia đó trong một hệ thống liên bang đã được đưa lên một trình độ rất cao khiến cho các thành phần đã được ăn khớp cùng nhau và kết tụ thành một khối dung hòa cùng nhau.
Nhiều nghi vấn đã được nêu lên về dự thảo Hiến pháp của liên bang và nhất là về ngành tư pháp của chính phủ liên bang. Những nghi vấn quan trọng đều liên quan tới trường hợp của các tòa án tiểu bang trong những vụ phải áp dụng luật pháp liên bang. Những tòa án tiểu bang bị mất hết quyền lực vì các tòa án tiểu bang, hay là cả hai loại tòa án đều cùng có hiệu lực? Nếu cả hai loại đều có hiệu lực, vậy hiệu lực của tòa án tiểu bang là như thế nào đối với các tòa án liên bang? Đó là những câu hỏi đã có rất nhiều người thắc mắc và đáng để cho chúng ta chú ý tới.
Liên quan đến những nguyên tắc mà chúng ta đã từng thảo luận trong một bài trên, các tiểu bang được giữ tất cả những quyền lực mà trước kia các tiểu bang vẫn có, nếu trong Hiến pháp không ghi rõ là phải ủy lại cho chính phủ liên bang. Những quyền lực mà các tiểu bang phải ủy lại cho chỉnh phủ liên bang đã được ghi rõ trong Hiến pháp bằng ba cách. Cách thứ nhất là khi Hiến pháp ghi rõ ràng rằng quyền lực đó hoàn toàn thuộc chính quyền liên bang. Cách thứ hai là quyền lực đó thuộc chính quyền liên bang và các tiểu bang bị cấm không được sử dụng quyền lực đó. Cách thứ ba là khi quyền lực đó thuộc chính quyền liên bang và nếu tiểu bang sử dụng quyền lực đó thì không thích hợp. Tuy những nguyên tắc trên không thể áp dụng riêng cho ngành tư pháp một cách mạnh mẽ như khi áp dụng cho toàn thể chính quyền liên bang nhưng theo ý kiến riêng của tôi, tôi chủ trương rằng phải áp dụng những nguyên tắc đó chung cho chính quyền liên bang lẫn cho ngành tư pháp liên bang một cách như nhau. Và vì vậy cho nên tôi chủ trương rằng các tòa án tiểu bang sẽ giữ tất cả các quyền lực cũ trừ những quyền lực mà Hiến pháp ghi rõ là ủy lại cho tòa án liên bang, theo một trong ba cách đã kể trên.
Có một đoạn trong Hiến pháp ghi về vấn đề định đoạt hiệu lực của các tòa án liên bang như sau:
“Quyền lực tư pháp của Hợp chúng quốc sẽ được giao phó cho một Toà án Tối cao và những toà án cấp dưới mà Quốc hội sẽ quyết định chuẩn chi và thiết lập” (Điều 3, khoản 1).
Đoạn trên có thể hiểu như sau: Hoặc là, chỉ riêng Toà án Tối cao và các toà án cấp dưới của liên bang là có quyền quyết định về những vụ việc trong phạm vi quyền hạn của tòa án liên bang. Hoặc là, những cơ quan của ngành tư pháp liên bang gồm có một Toà án Tối cao và những toà án liên bang cấp dưới mà Quốc hội sẽ quyết định thành lập, hay nói theo một cách khác, Hợp chúng quốc sẽ thi hành quyền lực tư pháp qua Toà án Tối cao và một số toà án cấp dưới mà chính phủ liên bang sẽ thành lập. Hiểu theo lối thứ nhất thì tức là quyền lực của các tòa án tiểu bang bị gạt bỏ, còn hiểu theo lối thứ hai thì các tòa án liên bang lẫn các tòa án tiểu bang đều cùng có quyền xét xử. Định nghĩa theo lối thứ nhất tức là hủy bỏ tất cả các quyền của các tiểu bang, vì vậy tôi cho là định nghĩa theo lối thứ hai thì hợp lý hơn.
Sự chia sẻ quyền lực của cả hai loại tòa án chỉ áp dụng cho những trường hợp mà trước kia thuộc phạm vi quyền hạn của các tòa án tiểu bang. Nhưng sự đồng quyền lực đó không thể áp dụng cho những trường hợp mà Hiến pháp đã ghi rõ là thuộc phạm vi quyền hạn của tòa án liên bang. Như vậy có nghĩa là các tòa án tiểu bang sẽ vẫn giữ được các quyền hạn cũ trừ phi Quốc hội quy định rõ ràng những trường hợp thuộc thẩm quyền của các tòa án liên bang.
Nhưng trong trường hợp mà cả tòa án liên bang lẫn tòa án tiểu bang đều cùng có thẩm quyền, thì phạm vi quyền hạn của hai loại tòa án đó thế nào? Tôi xin trả lời ngay là các tòa án tiểu bang có quyền kháng cáo lên Toà án Tối cao bởi vì Hiến pháp đã giao phó cho Toà án Tối cao quyền xét xử các vụ kháng cáo đồng thời với quyền xét xử các vụ chỉ thuộc phạm vi quyền hạn của Toà án Tối cao và không nói rõ dành riêng quyền kháng cáo cho các tòa án liên bang cấp dưới. Như vậy tức là các tòa án tiểu bang cũng có quyền kháng cáo. Nếu không hiểu theo nghĩa này thì tức là các tòa án tiểu bang sẽ không còn quyền được ngang hiệu lực với các tòa án liên bang nữa. Trong ngành tư pháp, hệ thống liên bang và hệ thống tiểu bang phải được coi là một hệ thống chung, một hệ thống toàn diện, cùng một khối, nghĩa là phải coi những tòa án tiểu bang là những tòa án phụ thuộc của hệ thống liên bang để thi hành các luật pháp liên bang. Hội nghị lập hiến rõ ràng là đã quy định rằng tất cả các vụ việc thuộc phạm vi quyền lực luật pháp liên bang sẽ được quyết định lần cuối cùng do Toà án Tối cao của liên bang, và như vậy, không những chỉ các tòa án liên bang cấp dưới mới có quyền kháng cáo mà cả những tòa án tiểu bang cũng phải có quyền kháng cáo lên Toà án Tối cao của liên bang.
Người ta lại cũng có thể hỏi rằng: tòa án tiểu bang có quyền kháng cáo lên các tòa án liên bang cấp dưới hay không? Tôi xin trả lời là có vì những lý do sau đây. Trước hết, Hiến pháp cho phép chính quyền liên bang “thành lập những tòa án liên bang ở cấp dưới Toà án Tối cao”. Sau nữa, Hiến pháp lại tuyên bố rằng “quyền lực tư pháp của Hợp chúng quốc sẽ được giao phó cho một Toà án Tối cao và những toà án cấp dưới mà Quốc hội sẽ chuẩn chi và thành lập”. Hiến pháp cũng ghi những trường hợp thuộc phạm vi quyền lực của luật pháp liên bang. Sau nữa, Hiến pháp phân chia quyền lực của Toà án Tối cao thành hai quyền lực, quyền lực phán định và quyền lực quyết định trong các vụ kháng cáo, nhưng Hiến pháp không phân chia rõ ràng quyền lực của các tòa án liên bang cấp dưới mà chỉ ghi rằng “các tòa án này ở cấp dưới Toà án Tối cao” và sẽ không được vượt ra ngoài phạm vi đã định của luật pháp liên bang. Như vậy tức là Hiến pháp không nói rõ các tòa án liên bang cấp dưới có quyền xét xử các vụ kháng cáo hay không. Việc đó để cho Quốc hội quyết định. Trong trường hợp này, tôi cho rằng không có lý do nào cấm đoán các tòa án liên bang cấp dưới không được xét xử các vụ việc mà các tòa án tiểu bang kháng cáo lên. Nếu quyền này được giao phó cho các tòa án liên bang cấp dưới thì sẽ có nhiều điều tiện lợi. Trước hết là để khỏi phải thành lập quá nhiều các tòa án liên bang cho đủ mục đích, và sau nữa là để giải quyết giúp cho Toà án Tối cao một phần những vụ kháng cáo. Như vậy, nhiều vụ đáng lẽ cần phải đưa lên Toà án Tối cao thì chỉ cần phải đưa từ tòa án tiểu bang lên các tòa án liên bang của từng khu vực mà thôi.
HAMILTON
Quyền thành lập tòa án cũng có nghĩa là quyền quy định thể thức xét xử. Như vậy, nếu trong Hiến pháp không nói đến thể thức xét xử bằng các bồi thẩm đoàn thì các tòa án có quyền tự do áp dụng thể thức này hoặc không áp dụng cũng được. Trong các vụ hình sự, Hiến pháp quy định bắt buộc phải áp dụng thể thức có bồi thẩm đoàn nhưng trong các vụ dân sự thì không ghi như vậy, tức là toà án có thể áp dụng hay không áp dụng thể thức xét xử bằng bồi thẩm đoàn với các vụ dân sự cũng được. Nhưng ghi rõ bắt buộc trong các vụ hình sự không có nghĩa là trong các vụ dân sự sẽ không bắt buộc. Điều đó chỉ có nghĩa là tòa án vẫn có quyền áp dụng thể thức xét xử bằng bồi thẩm đoàn nếu tòa án nhận thấy thể thức này thích hợp. Như vậy, những lời đồn rằng các tòa án liên bang không có quyền áp dụng thể thức xét xử bằng bồi thẩm đoàn chỉ là những lời đồn vô căn cứ.
Chúng ta có thể kết luận rằng: thể thức xét xử bằng bồi thẩm đoàn trong các vụ dân sự sẽ không bị bãi bỏ…
Nguồn: Trích từ Ralph H.Gabriel (1954). Hamilton, Madison and Jay: On the Constitution. Đại học Yale, Hoa Kỳ. Được dịch và ấn hành bởi Việt Nam Khảo dịch xã (có trụ sở ở 61 Lê Văn Duyệt, Sài gòn) vào các năm 1959 và 1966 ở miền Nam Việt Nam, dưới tên gọi là “Luận về Hiến pháp Hoa Kỳ”.
