Những luận cương liên bang (Phần 22)

Những luận cương liên bang (Phần 22)

V. NGÀNH HÀNH PHÁP

2. Quyền bổ nhiệm nhân viên

HAMILTON

…Tổng thống sẽ có quyền “đề cử, và, với ý kiến cùng sự thỏa thuận của Thượng Nghị viện, bổ nhiệm các vị đại sứ, các vị công sứ cùng các vị lãnh sự, các vị thẩm phán của Toà án Tối cao, và tất cả các nhân viên chính quyền khác mà thể thức sự bổ nhiệm không có ghi rõ trong Hiến pháp. Nhưng Quốc hội có quyền giao phó quyền lực bổ nhiệm những nhân viên cấp dưới cho riêng Tổng thống Toà án, hoặc cho Bộ trưởng của các bộ. Tổng thống sẽ có quyền lực bổ nhiệm nhân viên trong các chức vụ mà sự thiếu nhân viên xảy ra trong khi Thượng Nghị viện nghỉ họp, bằng cách cấp những ủy trạng thư chỉ có hiệu lực cho tới khi mãn khóa họp tới” (Điều 2, khoản 2, đoạn 2 và 3).

Trong một bài trước, chúng ta đã từng nhận thấy rằng “muốn biết một chính phủ có phải là một chỉnh phủ tốt hay không, chỉ việc xem các cơ quan hành chánh của chính phủ đó làm việc có đắc lực không”. Nếu nhận xét đó là một nhận xét xác đáng thì đoạn, điều, khoản trên nói về việc bổ nhiệm nhân viên chính quyền nên được coi là một đoạn đã được dự thảo rất chặt chẽ. Chúng ta không thể tìm được một thể thức bổ nhiệm nào hợp lý hơn thể thức do dự thảo Hiến pháp đưa ra để chọn lựa các nhân viên chính quyền.

Nhưng tại sao lại cần phải có sự hợp tác của Thượng Nghị viện? Tôi xin trả lời ngay rằng sự hợp tác đó là một yếu tố đắc lực tuy kín đáo. Yếu tố đó là để kiềm chế tinh thần thiên vị hoặc tham nhũng của Tổng thống, ngăn cản Tổng thống không thể bổ nhiệm những nhân viên bất tài, vô đức vào những chức vụ cần phải có người có tài có đức vì những lý do nể họ hàng, bạn bè hoặc để đề cao cá nhân của mình. Hơn nữa, sự hợp tác của Thượng nghị viện sẽ đem tới một yếu tố ổn định, liên tục cho các cơ quan hành chính.

Chắc ai cũng đều rằng một người nếu có toàn quyền bổ nhiệm nhân viên thì sẽ quyết định theo ý muốn riêng của mình hay có lợi cho quyền lợi của riêng mình. Nhưng người đó sẽ không dám quyết định như vậy nếu cần phải có sự thỏa thuận của một cơ quan khác, không ở dưới quyền của mình. Viễn cảnh cơ quan độc lập đó có thể bác bỏ việc đề cử của mình sẽ làm cho người đó phải nghĩ chín chắn trước khi đề cử. Nếu ý kiến của mình bị bác bỏ thì sẽ có ảnh hưởng tới thanh danh của người đề cử, và nếu người đó có một chức vụ do dân chúng bầu cử thì tương lai chính trị của người đó cũng sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều. Như vậy, người đó sẽ không dám đề cử vào những chức vụ có quyền cao, có lợi nhiều, những người mà vỏn vẹn chỉ có một ưu điểm là cùng một tiểu bang với người đó, hoặc có một dây liên lạc nào đó cùng với người đó khiến cho người đó có thể lợi dụng tùy theo ý muốn của mình, bảo sao nghe vậy…

HAMILTON

… Đến đây, chúng ta đã nghiên cứu xong về hệ thống tổ chức và quyền lực của ngành hành pháp, và tôi hy vọng là tôi đã trình bày được rõ ràng tất cả những yếu tố khiến cho ngành này đủ uy quyền cương quyết và đồng thời không vượt qua phạm vi của một chính thể cộng hòa. Câu hỏi cuối cùng là: ngành hành pháp đó có chứa đựng tất cả những yếu tố để duy trì nguyên tắc tự do cộng hòa hay không? Tức là ngành đó có luôn luôn phụ thuộc vào ý chí của nhân dân và có một tinh thần trách nhiệm đối với nhân dân hay không? Câu trả lời cho câu hỏi trên đã được nêu ra từ trước, khi chúng ta xem xét về những đặc điểm của nghành hành pháp, và chúng ta có thể nhắc lại một lần nữa như sau: Chúng ta có thể tin bởi những lý do sau: Tổng thống bốn năm lại được bầu cử một lần, do những người mà dân đã bầu để đại diện cho dân trong việc bầu cử Tổng thống; Tổng thống bất cứ lúc nào cũng có thể bị xét xử nếu phạm tội lạm dụng công quyền, và nếu bị kết tội, sẽ bị cách chức, không có quyền giữ một chức vụ khác, và sau một vụ xử thứ hai theo thường luật sẽ có thể bị mất cả tính mạng lẫn tài sản. Những phương tiện đề phòng đó tuy đã kỹ lưỡng, nhưng không phải là những phương tiện độc nhất mà dự thảo Hiến pháp đã trù liệu là tổng thống sẽ bị một cơ quan của ngành lập pháp kiểm soát khiến cho không thể lạm dụng công quyền được. Như vậy, chúng ta còn đòi hỏi gì hơn nữa ở một nhân dân sáng suốt và luôn biết lẽ phải.

Nguồn: Trích từ Ralph H.Gabriel (1954). Hamilton, Madison and Jay: On the Constitution. Đại học Yale, Hoa Kỳ. Được dịch và ấn hành bởi Việt Nam Khảo dịch xã (có trụ sở ở 61 Lê Văn Duyệt, Sài gòn) vào các năm 1959 và 1966 ở miền Nam Việt Nam, dưới tên gọi là “Luận về Hiến pháp Hoa Kỳ”.