[Chủ nghĩa tự do truyền thống] - Dẫn nhập (phần 2)
Đây là phần trích đăng từ chương "Introduction" (tr. 1-13) trong cuốn sách "Chủ nghĩa tự do truyền thống", tác phẩm kinh điển, có tính chất đặt nền móng cho chủ nghĩa tự do cá nhân của Ludwig von Mises, xuất bản lần đầu năm 1929. Nhan đề bài viết do TTTD Academy đặt.
- Thị trường Tự do Academy
(Tiếp theo Phần 1)
4. Mục tiêu của chủ nghĩa tự do
Nhiều người cho rằng dường như chủ nghĩa tự do khác với các phong trào xã hội khác ở chỗ nó đặt quyền lợi của một nhóm người - của những giai cấp có của, những nhà tư sản và doanh nhân – cao hơn quyền lợi của những giai cấp khác. Khẳng định như thế là hoàn toàn sai. Chủ nghĩa tự do bao giờ cũng quan tâm đến quyền lợi của tất cả mọi người thay vì quyền lợi của một nhóm đặc thù nào đó. Đấy chính là điều mà những người theo thuyết công lợi của Anh muốn nói, dù chưa đúng lắm với câu cách ngôn nổi tiếng của họ: “Hạnh phúc lớn nhất cho nhiều người nhất”. Về mặt lịch sử, chủ nghĩa tự do là phong trào chính trị đầu tiên đặt ra mục tiêu thúc đẩy sự thịnh vượng cho tất cả mọi người, chứ không phải cho những nhóm người cụ thể nào. Chủ nghĩa tự do khác với chủ nghĩa xã hội - một phong trào cũng kêu gọi đấu tranh cho quyền lợi của tất cả mọi người, không phải ở mục tiêu mà nó nhắm đến mà ở phương tiện mà nó lựa chọn để đạt được những mục tiêu này.
Khẳng định rằng hậu quả của chính sách tự do sẽ hoặc nhất định dẫn tới sự thiên vị đối với những quyền lợi đặc thù của một số giai tầng trong xã hội cũng là vấn đề cần phải thảo luận. Một trong những nhiệm vụ của tác phẩm này là chứng minh rằng phê phán như thế là hoàn toàn không có cơ sở. Nhưng ta không thể kết án người nói như thế là không công bằng ngay từ đầu, vì mặc dù chúng ta cho rằng ý kiến như thế là không chính xác, nhưng nó vẫn có thể xuất phát từ những ý định tốt đẹp nhất. Dù thế nào thì những người tấn công chủ nghĩa tự do theo cách đó đều thừa nhận rằng họ không có ý định gì cả và họ chỉ muốn nói cái điều họ muốn nói mà thôi.
Nhưng những người phê phán chủ nghĩa tự do vì cho rằng chủ nghĩa tự do chỉ muốn thúc đẩy quyền lợi đặc thù của những nhóm xã hội nhất định chứ không phải thúc đẩy phúc lợi chung thì lại hoàn toàn khác. Họ là những người vừa ngu dốt vừa không công bằng. Chọn cách tấn công như thế chỉ chứng tỏ rằng trong thâm tâm họ biết rõ nhược điểm của chính mình. Họ sử dụng vũ khí tẩm thuốc độc bởi vì nếu không thì sẽ không thể nào thắng được.
Nếu người thầy thuốc chỉ cho bệnh nhân muốn ăn món ăn có hại cho sức khỏe của anh ta rằng đấy là ước muốn gàn dở, thì không có một người nào lại ngu đến mức nói rằng: “Ông bác sĩ này không quan tâm tới sức khỏe bệnh nhân. Muốn cho bệnh nhân mau lành thì không được ngăn cản anh ta thưởng thức món ăn khoái khẩu đó”. Ai cũng hiểu rằng bác sĩ khuyên bệnh nhân đừng thưởng thức món ăn có hại cho sức khỏe là chỉ muốn giữ gìn sức khỏe cho anh ta mà thôi. Nhưng khi vấn đề liên quan đến lĩnh vực chính sách xã hội thì mọi người lại có cái nhìn khác hẳn. Khi một người theo phái tự do lên tiếng chống lại một số chính sách mị dân vì biết rằng chúng sẽ mang lại những hậu quả tai hại thì người đó sẽ bị coi là kẻ thù của nhân dân, còn những kẻ mị dân, không thèm để ý đến những tác hại sẽ xảy ra trong tương lai, thường đề nghị làm điều mà lúc đó tưởng như là có lợi, lại được dân chúng ca ngợi.
Hành động hữu lí khác với hành động phi lí ở chỗ có tính đến những hi sinh tạm thời. Trên thực tế, đấy chỉ là những hi sinh mang tính biểu kiến vì sẽ được đền bù xứng đáng trong tương lai. Người không ăn một món ăn khoái khẩu, nhưng có hại cho sức khỏe, thực ra là chỉ hi sinh tạm thời, chỉ tưởng là phải hi sinh mà thôi. Kết quả – không bị thiệt hại về sức khỏe – chứng tỏ người đó không những không mất mà còn được. Nhưng muốn làm được như thế thì phải có hiểu biết sâu sắc về hậu quả của mỗi hành động. Đấy chính là chỗ để kẻ mị dân lợi dụng. Hắn phản đối người theo trường phái tự do, tức là người đòi hỏi những hi sinh tạm thời, hắn tuyên bố rằng đấy là kẻ thù không đội trời chung của nhân dân và tự coi mình là người bạn của nhân quần. Trong khi cổ động cho những chính sách mà hắn chủ trương, hắn biết cách làm rung động trái tim của thính giả và làm họ rơi nước mắt bằng những câu chuyện về cảnh cùng khổ và đói nghèo.
Chính sách bài chủ nghĩa tự do là chính sách ăn dần vào vốn. Nó khuyên người ta hi sinh tương lai cho những khoản tiêu dùng thừa mứa trong hiện tại. Chẳng khác gì trường hợp người bệnh mà ta đã nói tới bên trên. Trong cả hai trường hợp ta đều thấy những sự bất lợi trong tương lai là cái giá phải trả cho sự hài lòng tương đối trong hiện tại. Trường hợp này mà còn nói đấy chỉ là vấn đề nhẫn tâm hay bác ái thì thật là bất lương và giả dối. Không chỉ hành động của các chính khách và báo chí của các đảng phái chống lại chủ nghĩa tự do mới đáng bị phê phán như thế. Hầu như tất cả những người cầm bút trường phái Sozialpolitik (chính sách xã hội) đều sử dụng phương thức đấu tranh lén lút như thế.
Cảnh nghèo đói và khốn cùng trên thế giới không phải là lí lẽ nhằm chống lại chủ nghĩa tự do, như những độc giả bình dân, kém hiểu biết thường nghĩ như thế. Nghèo đói và khốn cùng chính là điều mà chủ nghĩa tự do tìm cách xoá bỏ, và nó cho rằng chỉ có những biện pháp mà nó đề nghị mới là những biện pháp phù hợp với mục tiêu này mà thôi. Những người biết những biện pháp tốt hơn, hoặc thậm chí biết những biện pháp khác, hãy đưa ra bằng chứng. Khẳng định rằng những người theo trường phái tự do không đấu tranh cho quyền lợi của tất cả mọi người trong xã hội mà chỉ đấu tranh cho quyền lợi của những nhóm đặc thù nào đó không thể nào thay thế được cho bằng chứng.
Sự thực là cảnh nghèo đói và khốn cùng vẫn còn tồn tại cũng không phải là lí lẽ chống lại chủ nghĩa tự do, ngay cả nếu toàn thế giới đã thực hiện được chính sách tự do. Bao giờ cũng có thể hỏi rằng nếu các chính sách khác giữ thế thượng phong thì cảnh nghèo đói và khốn cùng có nhiều hơn hay không. Sau khi đã nhìn thấy những trở ngại và hạn chế do chính sách bài chủ nghĩa tự do gây ra cho sở hữu tư nhân trên khắp thế giới, thì việc tìm những lí lẽ nhằm chống lại những nguyên tắc của tự do chỉ vì những điều kiện kinh tế hiện nay không như ý người ta là việc làm hoàn toàn vô nghĩa. Muốn đánh giá được thành quả của chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tư bản thì phải so sánh những điều kiện hiện nay với những điều kiện của thời Trung Cổ hay những thế kỉ đầu tiên của thời hiện đại. Những thành tựu mà chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tư bản có thể đạt được, nếu không bị ngăn cản, có thể được suy ra chỉ từ những tính toán mang tính lí thuyết mà thôi.
5. Chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tư bản
Một xã hội tại đó những nguyên lí của chủ nghĩa tự do được thực thi thường được gọi là xã hội tư bản, còn điều kiện tồn tại của xã hội đó thì được gọi là chủ nghĩa tư bản. Vì trên thực tế chính sách kinh tế của chủ nghĩa tự do chỉ được thực thi một cách gần đúng, cho nên tình hình hiện nay trên thế giới không thể cung cấp cho ta nhận thức đúng đắn về ý nghĩa và những thành tựu mà chủ nghĩa tư bản có thể vươn tới nếu nó có điều kiện phát triển một cách trọn vẹn. Tuy nhiên, về đại thể có thể gọi thời đại của chúng ta là thời đại tư bản chủ nghĩa, vì chính những thể chế của chủ nghĩa tư bản đã tạo dựng nên tất cả những tài sản mà chúng ta đang thấy hiện nay. Nhờ có những tư tưởng tự do vẫn còn đang tồn tại trong xã hội chúng ta, nhờ tất cả những gì còn sót lại từ hệ thống tư bản chủ nghĩa, mà biết bao nhiêu người cùng thời với chúng ta được hưởng mức sống cao hơn rất nhiều so với mấy thế hệ trước đây, một mức sống mà lúc đó chỉ những người giàu có hay tầng lớp đặc quyền đặc lợi mới được hưởng.
Chắc chắn là những thực tế đó đã bị sáo ngữ của những kẻ mị dân xuyên tạc. Nghe chúng, người ta có cảm tưởng rằng tất cả các tiến bộ trong kĩ nghệ sản xuất chỉ góp phần làm giàu cho một số rất ít người, còn phần lớn dân chúng thì ngày càng lún sâu vào cảnh bần hàn. Nhưng chỉ cần suy nghĩ một chút thôi là người ta sẽ hiểu ngay rằng tất cả những thành tựu về mặt công nghệ và sáng kiến trong lĩnh vực sản xuất đều nhằm đáp ứng nhu cầu của quần chúng. Tất cả những ngành công nghiệp lớn chuyên sản xuất hàng tiêu dùng đều trực tiếp phục vụ quần chúng, còn những ngành sản xuất máy móc và bán sản phẩm thì phục vụ họ một cách gián tiếp. Những thành tựu công nghiệp vĩ đại trong mấy chục năm gần đây, cũng như những thành tựu của thế kỉ XVIII mà người ta gọi bằng thuật ngữ không thật đúng lắm là “Cuộc cách mạng công nghiệp”, bên cạnh những thứ khác, đã góp phần đáp ứng một cách đầy đủ hơn nhu cầu của quần chúng nhân dân. Sự phát triển của ngành dệt may, việc cơ khí hoá ngành sản xuất giày và những tiến bộ trong ngành chế biến và phân phối lương thực thực phẩm thực chất là đã mang lại lợi ích cho những tầng lớp quần chúng rộng rãi nhất. Nhờ có những ngành công nghiệp này mà ngày nay nhân dân được ăn ngon hơn và mặc đẹp hơn trước kia rất nhiều. Nhưng sản xuất hàng loạt cung cấp không chỉ thức ăn, quần áo mặc, nhà ở, mà còn làm ra rất nhiều sản phẩm khác, đáp ứng cho nhu cầu của quần chúng. Quần chúng được đọc báo, được xem phim, thậm chí nhà hát và “những pháo đài” nghệ thuật khác cũng ngày càng trở thành nơi giải trí của quần chúng nhân dân.
Nhưng bộ máy tuyên truyền năng nổ của các đảng phái bài chủ nghĩa tự do, bằng cách đổi trắng thay đen tất cả các thực tế, đã tạo ra một thực trạng là hiện nay người dân thường gắn những tư tưởng của chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tư bản với hình ảnh một thế giới đang ngày càng lún sâu vào tình cảnh nghèo khổ, đói rách. Chắc chắn là, dù có cố gắng đến đâu, bộ máy tuyên truyền cũng không thể nào bôi nhọ được những từ như “người tự do”, “chủ nghĩa tự do”, như những kẻ mị dân hi vọng. Xin nói thêm rằng không thể nào lờ đi được một thực tế là mặc cho những cố gắng của bộ máy tuyên truyền của các lực lượng chống lại tự do, những từ này vẫn tạo ra trong lòng những người bình thường một điều gì đó khi họ nghe thấy hai tiếng “tự do”. Chính vì vậy, bộ máy tuyên truyền của những lực lượng bài chủ nghĩa tự do tìm cách tránh né cụm từ “chủ nghĩa tự do” và tìm cách làm cho người ta liên hệ những điều xấu xa, mà họ gán ghép cho hệ thống tự do, với thuật ngữ “chủ nghĩa tư bản”. Từ này thường gợi lên trong tâm trí người ta một nhà tư sản bất lương, một kẻ chỉ nghĩ đến việc làm giàu, dù có phải bóc lột đồng bào của mình thì hắn cũng chẳng từ.
Chẳng có mấy người, trong khi suy tư về chủ nghĩa tư bản, lại nghĩ được rằng đấy là chế độ được tổ chức trên những nguyên lí tự do chân chính, với những cơ chế mở ra các doanh nhân và các nhà tư sản chỉ một cách làm giàu duy nhất: cung cấp cho đồng bào của mình những món hàng tốt nhất mà chính họ nghĩ là cần. Đáng lẽ khi nói về chủ nghĩa tư bản thì phải nhắc đến sự cải thiện tột bậc mức sống của quảng đại quần chúng thì bộ máy tuyên truyền của những lực lượng chống lại tự do lại chỉ nói đến những hiện tượng mà sẽ không thể xuất hiện nếu như không có những rào cản mà người ta cố tình áp đặt lên chủ nghĩa tự do. Không bao giờ người ta nhắc đến một thực tế là chủ nghĩa tư bản đã đưa tới những món đồ vốn được coi là xa xỉ phẩm, cũng như những món ăn, trong đó có đường, đến tay quảng đại quần chúng. Chủ nghĩa tư bản chỉ được nhắc tới khi các tập đoàn nâng giá đường tại một quốc gia lên cao hơn giá trên thị trường thế giới. Họ cứ tưởng tượng như thể hiện tượng như thế xuất hiện trong chế độ nơi mà những nguyên tắc của chủ nghĩa tự do thực sự có hiệu lực vậy. Trong một đất nước với chế độ tự do, tức là không có thuế quan, thì hiện tượng các tập đoàn có thể bán với giá cao hơn giá thị trường thể giới là việc không thể nào tưởng tượng nổi.
Cái mắt xích kết nối lí lẽ mà những kẻ mị dân thường dùng nhằm đổ riệt cho chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tư bản những sự quá quắt và hậu quả tai hại của những chính sách bài chủ nghĩa tự do là như sau: Họ bắt đầu bằng giả định rằng các nguyên tắc của chủ nghĩa tự do chỉ nhằm thúc đẩy quyền lợi của những nhà tư sản và doanh nhân, làm thiệt hại đến lợi ích của những tầng lớp dân cư khác và chủ nghĩa tự do là chính sách có lợi cho người giàu và có hại cho người nghèo. Sau đó họ nói rằng nhiều doanh nhân và nhà tư sản, trong những điều kiện nhất định, đòi phải có những sắc thuế mang tính bảo hộ và rồi những kẻ khác - những nhà sản xuất vũ khí - ủng hộ chính sách “sẵn sàng chiến đấu”; và ngay lập tức họ nhảy sang kết luận rằng đấy chính là chính sách “tư bản chủ nghĩa”.
Trên thực tế, vấn đề hoàn toàn ngược lại. Chủ nghĩa tự do không phải là chính sách có lợi cho bất cứ giai tầng cụ thể nào mà là chính sách có lợi cho tất cả mọi người. Vì vậy mà sẽ là sai khi khẳng định rằng các doanh nhân và các nhà tư sản sẽ nhận được những quyền lợi đặc biệt khi họ ủng hộ chủ nghĩa tự do. Họ cũng chỉ có quyền lợi giống hệt như những người khác mà thôi. Có thể, trong một số trường hợp, một số doanh nhân hay tư sản đã tìm cách “nhồi nhét” quyền lợi đặc thù của mình vào cương lĩnh của chủ nghĩa tự do, nhưng những quyền lợi đặc thù này sẽ gặp phải sự chống đối của những quyền lợi đặc thù của những doanh nhân khác hay các nhà tư sản khác. Vấn đề hoàn toàn không đơn giản như tưởng tượng của những kẻ ở đâu cũng đánh hơi thấy “quyền lợi” và “nhóm lợi ích”. Thí dụ như nhà nước đặt ra thuế nhập khẩu sắt thép không thể giải thích “một cách đơn giản” là nó mang lại lợi nhuận cho các tập đoàn sắt thép. Trong một quốc gia bao giờ cũng có những người có quyền lợi ngược lại, thậm chí ngay cả trong giới doanh nhân với nhau; và dù thế nào thì số người được lợi do thuế nhập khẩu sắt thép mang lại cũng là không đáng kể và ngày càng ít đi. Hối lộ cũng không phải vì người nhận hối lộ cũng không phải là nhiều và ngoài ra, tại sao chỉ có một nhóm những người muốn bảo hộ đút lót mà không phải những người phản đối bảo hộ, những người ủng hộ tự do thương mại, đút lót?
Trên thực tế, không phải những “nhóm quyền lợi” hay những người ăn đút lót của họ tạo ra hệ tư tưởng ủng hộ những sắc thuế mang tính bảo hộ mà chính những nhà tư tưởng, những người đưa ra những ý tưởng điều khiển toàn bộ công việc của nhân loại, đã đưa ra những tư tưởng này. Trong thời đại của chúng ta, khi mà những tư tưởng phản tự do đang giữ thế thượng phong thì hầu như mọi người đều nghĩ như thế, cũng như cách đây một trăm năm, đa số đã tư duy bằng những thuật ngữ của hệ tư tưởng tự do mà lúc đó đang giữ thế thượng phong. Nếu hiện nay có nhiều doanh nhân ủng hộ những sắc thuế có tính bảo hộ thì đấy chính là hình thức cụ thể của chủ nghĩa bài tự do. Đấy không phải là chủ nghĩa tự do.
(Xem tiếp Phần 3)
Nguồn: Ludwig von Mises, Liberalism - The Classical Tradition. Edited by Bettina Bien Greaves, Liberty Fund, Inc. 2005