Chống lạm phát khó như chữa cai nghiện

Chống lạm phát khó như chữa cai nghiện

TBKTSG (tháng 8.2011) - CPI tháng 7.2011 tăng 1,17% so với tháng trước. Theo thống kê, đây là mức tăng CPI cao nhất trong tháng 7 của 15 năm gần đây. Với mức tăng này, lạm phát tính theo năm của Việt Nam đã tăng tới 22,16%, cao hàng thứ 2 trên thế giới, chỉ sau Venezuela. Mức tăng CPI trên 1% của tháng 7 khiến cho hoạch duy trì lạm phát năm 2011 dưới 17% của Chính Phủ rất khó có thể trở thành hiện thực bởi “zoom” còn lại cho 5 tháng cuối năm chỉ còn 2,4%.

Tốc độ tăng CPI và cung tiền mở rộng (M2) của Việt Nam, 2002-7.2011

Nguồn: số liệu từ IMF, Tổng cục thống kê và các công bố của Ngân hàng nhà nước, tính toán bởi tác giả.

Sự tăng trở lại của CPI trong tháng 7 một lần nữa thể hiện công cuộc chống lạm phát không hề dễ dàng một khi nó diễn ra. Để có thể kiểm soát được lạm phát trở lại, nền kinh tế không thể tránh khỏi một cuộc giải phẫu đau đớn. Tuy nhiên sự thành công của cuộc giải phẫu sẽ phụ thuộc rất nhiều vào thái độ và các biện pháp phòng ngừa của chính phủ đối với lạm phát sau giai đoạn giải phẫu.

Bản chất của lạm phát

Bản chất của lạm phát là cung tiền vượt quá lượng tiền cần thiết lưu thông trong nền kinh tế. Xét đến cùng, đó là do ngân hàng trung ương bơm nhiều tiền ra nền kinh tế với mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất đáng có của nền kinh tế.  Lượng tiền thừa với lãi suất thấp này ban đầu chưa phản ánh ngay vào mức tăng giá cả do kỳ vọng giá cả của các thành viên tham gia thị trường vẫn chưa thay đổi. Tuy nhiên, theo thời gian, một số khu vực của nền kinh tế sẽ phát hiện ra sự dư thừa này và bắt đầu tăng giá. Nếu tốc độ tăng trưởng cung tiền tiếp tục được duy trì trong một thời gian đủ dài thì sự tăng giá sẽ lan ra toàn bộ nền kinh tế, khiến cho các mức giá cả leo thang cao dần, tạo ra hiện tượng lạm phát giá cả như chúng ta quan sát.

Vì lạm phát tiền tệ có độ trễ so với sự tăng giá toàn bộ hàng tiêu dùng nên nó rất dễ bị các chính phủ lạm dụng để phục vụ cho các mục đích chính trị của mình. Đấy chính là lý do Fredrich von Hayek, một nhà kinh tế lỗi lạc thế kỷ XX và giành giải thưởng Nobel về lý thuyết tiền tệ năm 1974, đã ví lạm phát như là thuộc phiện. Việc dùng thuốc phiện đem lại những sảng khoái ban đầu. Nhưng sau khi đã quen thì việc cai nghiện hoặc ngay cả sử dụng thuốc với một liều lượng cố định sẽ là một cực hình. Còn nếu tiếp tục tăng liều lượng thì tuy giải quyết được sự “khó chịu” lúc đó thì kết cục cuối cùng vẫn là “đi xa”.

Mối quan hệ giữa tăng trưởng cung tiền (M2) và lạm phát của Việt Nam cho thấy Việt Nam đã lạm dụng việc phát hành cung tiền để hỗ trợ tăng trưởng trong một thời gian dài. Trong các năm từ 2002 đến 2006 việc tăng cung tiền không dẫn đến giá cả tăng cao khiến cho tốc độ tăng cung tiền ngày một lớn, từ mức khoảng 20%/năm 2002-2003, lên 25% năm 2004-2005, rồi 35% trong năm 2006, và cuối cùng vượt 40% năm 2007. Từ 2007, người dân bắt đầu nhận ra và lạm phát bắt đầu tăng tốc từ cuối 2007. Đối diện với lạm phát, chính phủ đã ba lần thực hiện chính sách thắt chặt và rồi hai lần phải mở rộng cung tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng. Điều này cho thấy rằng một khi lạm phát diễn ra, việc chữa trị lạm phát là rất khó. Liệu lần thắt chặt này chính phủ có thể duy trì được trong bao lâu trước sức ép của các bộ phận khác nhau của nền kinh tế?

Chống lạm phát: đau đớn một lần hay đau đớn kéo dài?

Có hai cách tiếp cận trong việc chống lạm phát. Cách thứ nhất là giảm từ từ (gradualist therapy) và cách thứ hai là giảm ngay tức thì (shock therapy). Giảm từ từ là biện pháp được nhiều người ưa thích vì nó đượm vẻ ‘nhân văn’ hơn. Biện pháp này đòi hỏi chính phủ phải theo đuổi một chính sách tuần tự nhất quán (policies in sequence) trong nhiều năm. Một mặt phải giảm từ từ cung tiền, mặt khác phải dần thay đổi cơ cấu kinh tế để nền kinh tế vận hành hiệu quả hơn sao cho với tốc độ tăng cung tiền thấp hơn nền kinh tế vẫn có thể tăng trưởng ở mức tương đương so với mức tăng trưởng cung tiền cao trước đây.

Tuy đây là giải pháp đáng ao ước nhưng lại là điều không hề dễ dàng cho các chính phủ do nó rất khó có thể duy trì được sự ủng hộ cũng như đồng thuận của các nhóm lợi ích trong một thời gian dài, xuyên suốt quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế.

Chính sách thắt chặt tiền tệ trong đầu năm 2008 và đầu năm 2010 đã phản ánh thực tế này. Mới tiến hành thì có vẻ dễ dàng nhưng rất khó có thể duy trì. Sức ép từ các nhóm lợi ích của nền kinh tế khiến cho sức hấp dẫn của lạm phát tiền để phục vụ tăng trưởng đã xảy ra vào nửa cuối các năm sau đó. Kết cục, lạm phát chưa kịp hạ thì đã tăng tốc trở lại.

Khu vực nào phải chịu hy sinh nếu chống lạm phát quyết liệt?

Biện pháp thứ hai là giảm cung tiền ngay tức thì và đồng thời tiến hành giải phẫu “đau đớn” cơ cấu của nền kinh tế. Biện pháp này thường được thực hiện khi hoặc chính phủ đủ mạnh (và ý thức được là nếu kéo dài thì sức mạnh cải cách của chính phủ sẽ giảm đi) để chủ động thực hiện các biện pháp cải cách triệt để. Đôi khi nó cũng được tiến hành do sự can thiệp từ bên ngoài khi quốc gia đứng trước nguy cơ vỡ nợ.

Giải pháp này đòi hỏi phải nhà nước phải thu nhỏ quyền lực của mình đối với nền kinh tế. Cụ thể, chính phủ cần thả nổi theo giá thị trường hầu hết các lĩnh vực nhà nước đang kiểm soát giá để đảm bảo nền kinh tế thị trường vận hành thông suốt; tiến hành tư nhân hóa mạnh mẽ hệ thống doanh nghiệp nhà nước để nâng cao năng suất lao động; và đồng thời cắt giảm mạnh mẽ bộ máy chính phủ. Việc tinh giảm bộ máy chính phủ sẽ giúp cho các khoản chi thường xuyên trong ngân sách giảm, nhờ đó có thể giảm được các khoản thu từ thuế và phí.

Việt Nam đã từng theo đuổi liệu pháp sốc để chống lạm phát phi mã những năm 1989-1991. Trong giai đoạn này, chính phủ đã thực hiện một loạt các biện pháp như giải phóng sức sản xuất thông qua Khoán 10 và các biện pháp cho phép tư nhân, tiểu thương kinh doanh buôn bán; xóa bỏ chế độ hai giá đối với hầu hết các mặt hàng; và chấm dứt bao cấp đối với hầu hết các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hoạt động không hiệu quả. Hàng ngàn DNNN yếu kém đã bị giải thể, sáp nhập với các doanh nghiệp khác. Các DNNN phải tự phải cân đối vốn và bươn trải trên thương trường. Các biện pháp giảm biên chế, giải ngũ v.v. cũng đã làm giảm đáng kể chi tiêu ngân sách nhà nước cho các khu vực không hiệu quả. Những giải pháp mạnh mẽ này giúp Việt Nam kiềm chế được tốc độ tăng CPI dưới hai con số và đạt mức tăng trưởng cao nhiều năm liền sau đó.

Bài học cho công cuộc chống lạm phát hiện nay

Ngày nay, để duy trì mức lạm phát thấp trong khi vẫn đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng cao, chính phủ cần xem lại các bài học trên. Cụ thể chính phủ nên nhanh chóng xây dựng thị trường cho các lĩnh vực điện, xăng dầu, giáo dục, y tế, và văn hóa; chính phủ cần tiếp tục giải phóng sức sản xuất cho khu vực kinh tế tư nhân và cải tổ lại DNNN triệt để hơn nữa; xem lại chính sách về sở hữu đất đai để tạo ra một Khoán 10 mới cho khu vực nông thôn; giảm chi tiêu nhà nước cho các khu vực không tạo ra năng suất như tinh giảm biên chế cho bộ máy hành chính và thu nhỏ hoặc ‘xã hội hóa’ các đoàn thể.

Các biện pháp tinh giảm bộ máy hành chính nên được tiến hành để sao cho chi thường xuyên quay trở về mức 15%-16% GDP như các năm 2000-2002 thay vì xấp xỉ 22% như hiện nay. Nhờ đó, các khoản thu thường xuyên từ thuế và phí từ khu vực sản xuất có thể cắt giảm về mức dưới 20% như hầu hết các quốc gia trong khu vực.

Điều quan trọng nữa là sau khi đã kiểm soát lạm phát thành công, chính phủ và quốc hội cần xây dựng các công cụ chính sách tiền tệ và tài khóa hiện đại, hình thành cơ chế giám sát và phòng ngừa sao cho không để lạm phát tăng quá 5%. Bất cứ khi nào CPI có dấu hiệu tăng quá 5%, chính phủ cần phải giải trình nguyên nhân và đưa ra biện pháp để nhanh chóng đưa CPI về dưới mức này.

Thu, chi ngân sách nhà nước tính theo phần trăm GDP, 2000-2010

Nguồn: Tổng cục thống kê và Bộ tài chính.

 

Nguồn: TBKTSG tháng 8 2011