MỤC LỤC

PHẦN I – CHỈ SỐ TỰ DO KINH TẾ THẾ GIỚI NĂM 2022 CỦA VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GỢI Ý CHÍNH SÁCH

Tổng quan Chỉ số tự do kinh tế thế giới năm 2022

Các nội dung khác của Báo cáo thường niên 2024

Chỉ số tự do kinh tế thế giới năm 2022 của Việt Nam

Một số gợi suy chính sách từ Chỉ số tự do kinh tế thế giới 2022 của Việt Nam

Phụ lục

PHẦN II – BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN 2024 – CHỈ SỐ TỰ DO KINH TẾ THẾ GIỚI

Báo cáo tóm tắt

Chương 1: Tự do Kinh tế Thế giới năm 2022
    Robert Lawson, Ryan Murphy, và Matthew D. Mitchell

Chương 2: Tự do Kinh tế hay Nguy cơ Dân túy: Bài học cho Argentina
   Kevin Grier và Robin Grier

Chương 3: Tự do Kinh tế và hưu trí
   Daniel J. Mitchell

Phụ lục: Ghi chú, Giải thích và Nguồn Dữ liệu

Lời cảm ơn

Về các tác giả

Những cộng sự đóng góp

Mạng lưới Tự do Kinh tế

 

 

PHẦN I: CHỈ SỐ TỰ DO KINH TẾ THẾ GIỚI NĂM 2022 CỦA VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GỢI Ý CHÍNH SÁCH

TỔNG QUAN CHỈ SỐ TỰ DO KINH TẾ THẾ GIỚI NĂM 2022

Ngày 16/10/2024, Viện Fraser (Canada) công bố Báo cáo thường niên 2024: Tự do kinh tế thế giới. Như thường lệ, Báo cáo năm 2024 công bố chỉ số Tự do kinh tế thế giới năm 2022 của 165 quốc gia và vùng lãnh thổ,là năm mà Báo cáo có đủ dữ liệu mới nhất cho tất cả các quốc gia xếp hạng.

Các quốc gia được xếp hạng cao nhất

Trong báo cáo năm trước, Singapore vượt qua Hồng Kông để lần đầu tiên chiếm ngôi đầu bảng.Trong báo cáo năm nay, dựa trên dữ liệu cập nhật và sửa đổi cho năm 2021 và dữ liệu mới cho năm 2022, Hồng Kông có điểm cao hơn Singapore trong cả hai năm. Mặc dù có sự đảo ngược trong bảng xếp hạng, nhưng điểm số của Hồng Kông tiếp tục giảm mạnh từ 9,05 vào năm 2018 xuống 8,58 vào năm 2022.

Các quốc gia có điểm số cao tiếp theo là Thụy Sĩ, New Zealand, Hoa Kỳ, Đan Mạch, Ireland, Canada, Úc và Luxembourg.

Xếp hạng của các quốc gia ASEAN và Đông Á

Trong khối ASEAN, đứng đầu là Singapore (2) và tiếp đến lần lượt là Malaysia (29), Philippines (59), Indonesia (59), và Thái Lan (65). Việt Nam có xếp hạng thứ 99. Đây là lần đầu tiên thứ hạng của Việt Nam lọt vào tốp 100, tăng bốn bậc từ vị trí 103 của năm trước. Không chỉ Việt Nam, bốn quốc gia ASEAN khác cũng cải thiện thứ bậc, cụ thể: Campuchia (+4), Indonesia(+2), Malaysia (+14), và Philippines (+9).

Với các nước Đông Á, đứng đầu là Nhật Bản (11, tăng 4 bậc), tiếp đến là Đài Loan (19, giảm 8 bậc) và Hàn Quốc (32, tăng 13 bậc). Trung Quốc xếp hạng thứ 104, thấp hơn Việt Nam, nhưng cũng tăng 3 bậc.

Tự do kinh tế toàn cầu tiếp tục suy giảm

Điểm số tự do kinh tế trung bình toàn cầu cho tất cả các quốc gia/vùng lãnh thổ có dữ liệu đầy đủ kể từ năm 2000 cho thấy, từ năm 2000 đến năm 2019, điểm tự do kinh tế trung bình tăng từ 6,19 lên 6,80 điểm. Nhưng điểm tự do kinh tế toàn cầu đã giảm liên tiếp trong ba năm qua, xóa bỏ hơn một thập kỷ tăng trưởng của chỉ số này.

Phúc lợi ở các quốc gia có tự do kinh tế cao hơn hẳn

Báo cáo Tự do kinh tế thế giới 2024 đã chỉ ra tự do kinh tế đã mang lại phúc lợi cho người dân cao hơn hẳn khi sống ở các nước có tự do kinh tế cao hơn. Chẳng hạn, trong số các quốc gia ở tứ phân vị cao nhất về tự do kinh tế, GDP bình quân đầu người là 52.877 USD vào năm 2022, trong khi ở những nơi ít tự do kinh tế nhất, con số này là 6.968 USD. Không chỉ thu nhập bình quân, các chỉ số phản ánh phúc lợi xã hội như thu nhập của nhóm người nghèo nhất, tuổi thọ trung bình của người dân, tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong, tỷ lệ dân số thuộc nhóm cực nghèo, mức độ hài lòng với cuộc sống, tỷ lệ lao động trẻ em, tỷ lệ biết chữ của thanh niên, hiệu suất môi trường, lòng khoan dung, và cảm nhận tham nhũng,tất cả đều cho thấy những nơi có tự do kinh tế cao nhất ghi nhận những kết quả tích cực hơn một cách rõ rệt so với những nơi có tự do kinh tế thấp nhất.

CÁC NỘI DUNG KHÁC CỦA BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN 2024

Bên cạnh công bố các nội dung liên quan đến chỉ số tự do kinh tế thế giới năm 2022, Báo cáo thường niên 2024: tự do kinh tế thế giới còn bao gồm 2 chương chuyên đề. Chương chuyên đề thứ nhất bàn về “Tự do kinh tế hay Nguy cơ dân túy: Bài học cho Argentina”. Sau nhiều thập kỷ bất ổn và chế áp tự do kinh tế, Argentina hiện đang được điều hành bởi một nhà lãnh đạo mới. Tổng thống Javier Milei, người sử dụng ngôn ngữ dân túy và đôi khi bỗ bã, là niềm hy vọng sẽ mang lại tự do cho nền kinh tế Argentina nhanh nhất có thể. Dựa trên các nghiên cứu gần đây của mình, các giáo sư Kevin Grier và Robin Grier từ Texas Tech cho thấy những cuộc cải cách tự do kinh tế nhanh chóng nhằm loại bỏ tham nhũng và tránh được những thái quá của chủ nghĩa dân túy thường mang đến thành quả là làm gia tăng thu nhập bình quân đầu người.

Chương chuyên đề thứ hai bàn về “Tự do Kinh tế và hưu trí”.Với việc dân số già đi và tỷ lệ sinh giảm, các hệ thống hưu trí khu vực công trên toàn thế giới đối mặt với yêu cầu cần phải được cải cách. Thiết kế hệ thống hưu trí ảnh hưởng đến tự do kinh tế như thế nào? Và làm thế nào chúng ta có thể tích hợp hưu trí vào chỉ số tự do kinh tế? Nhà kinh tế học Daniel Mitchell từ Center for Freedom and Prosperity, với kinh nghiệm lâu năm của mình, đã trình bày trong chương này nghiên cứu về hưu trí. Ông đưa ra một số gợi ý để tích hợp thiết kế hệ thống hưu trí vào chỉ số tự do kinh tế thế giới hàng năm.

CHỈ SỐ TỰ DO KINH TẾ THẾ GIỚI NĂM 2022 CỦA VIỆT NAM

Đây là năm thứ 3 liên tiếp, Việt Nam cải thiện cả về điểm số và thứ hạng trong chỉ số tự do kinh tế thế giới do Viện Fraser (Canada) công bố hàng năm. Cụ thể, điểm số đã tăng từ 6,17 năm 2019 lên 6,23 năm 2022. Xét về thứ hạng, Việt Nam tăng từ 123/165 lên 99/165 trong cùng thời kỳ. Đây cũng là lần đầu tiên, vị trí xếp hạng của Việt Nam nằm trong nhóm 100 quốc gia và vùng lãnh thổ đứng đầu.

Điểm số và thứ hạng của Việt Nam cải thiện trong 3 năm, 2020-2022, là quãng thời gian cả thế giới phải chống chọi với Đại dịch Covid-19. Để phòng chống dịch, nhiều quốc gia đã áp dụng nhiều biện pháp ảnh hưởng đáng kể đến quyền tự do kinh tế của người dân, dẫn đến điểm số tự do kinh tế trung bình của toàn thế giới bị suy giảm mạnh, từ 6,8 điểm năm 2019 xuống còn 6,56 điểm năm 2022.

Những ghi nhận về điểm số và thứ hạng của Việt Nam trong chỉ số Tự Do kinh tế thế giới phản ánh Chính phủ Việt Nam đã có những điều chỉnh chính sách kinh tế kịp thời theo hướng thân thiện với thị trường đểho trợ phục hồi kinh tế trong giai đoạn đại dịch Covid-19.

Xét về các chỉ số thành phần, Quy mô chính phủ là lĩnh vực Việt Nam có điểm số và thứ hạng suy giảm nhiều nhất so với năm trước. Cụ thể, năm 2022, điểm số của Lĩnh vực này là 6,28 giảm từ mức 6,51 của năm 2021, dẫn đến thứ hạng giảm từ 87 xuống 106. Nguyên nhân chính dẫn đến điểm số và thứ hạng giảm ở Lĩnh vực này là Mức thuế thu nhập, Mức thuế lương bổng cận biên cũng như Tỷ lệ sở hữu tài sản nhà nước của Việt Nam còn quá cao, không có sự cải thiện  so với các quốc gia khác trên thế giới.

Lĩnh vực Hệ thống pháp lý và quyền tài sản không có sự thay đổi về điểm số so với năm trước (5,15), dẫn đến thứ hạng sụt giảm 1 bậc, từ 77 xuống 78. Nguyên nhân khiến cho điểm số của Lĩnh vực này còn thấp chủ yếu đến từ điểm số liên quan đến các tiêu chí Tư pháp độc lập, Toà án công bằng và Thực thi hợp đồng còn thấp.

Lĩnh vực Đồng tiền vững mạnh đã có sự cải thiện đôi chút về điểm số(tăng từ 6, 95 lên 6,98) nhưng cũng đủ để giúp thứ hạng tăng mạnh từ 116 lên 105.Rất nhiều quốc gia đã mở rộng cung tiền dẫn đến lạm phát tăng mạnh,làm cho điểm số của họ bị sụt giảm. Với Việt Nam,Kiểm soát tăng trưởng cung tiền và lạm phát tiếp tục là điểm sáng ở Lĩnh vực này. Tuy nhiên, tiểu thành phần Tài khoản ngoại tệ tại các ngân hàng vẫn chưa được khắc phục khiến cho Việt Nam vẫn nhận 0 điểm ở tiểu thành phần này.

Ở lĩnh vực Tự do thương mại quốc tế, điểm số của Việt Nam đã tăng từ 6,43 điểm lên 6,57 điểm từ năm 2021 đến năm 2022. Tuy thế, thứ hạng Lĩnh vực này lại giảm từ 101 xuống 113.Điều này phản ánh thực tế là hầu hết các quốc gia khác cũng đã mở cửa thương mại quốc tế trở lại sau khi khống chế được dịch bệnh trong năm 2022.Trong Lĩnh vực này, Việt Nam đạt kết quả tốt các tiểu thành phần liên quan đến mức thuế quan và tỷ giá chợ đen, và được ghi nhận có sự cải thiện về Rào cản pháp lý trong thương mại quốc tế. Tuy vậy, Việt Nam vẫn tiếp tục nhận đánh giá thấp về Độ mở thị trường tài chính, rất thấp đối với Kiểm soát vốn và Tự do cho người nước ngoài đến thăm.

Trong lĩnh vực cuối cùng, Quy định, Việt Nam tiếp tục ghi nhận những cải thiện về điểm số, từ 6,16 điểm năm 2021 lên 6,20 điểm năm 2022, giúp cho thứ hạng của Việt Nam tăng từ 103 lên 99 trong cùng thời kỳ. Trong Lĩnh vực này, đánh giá tích cực hơn so với năm trước được ghi nhận ở tiểu thành phần Kiểm soát tín dụng, nhưng lại tiêu cực hơn ở tiểu thành phần Quy định kinh doanh.

MỘT SỐ GỢI SUY CHÍNH SÁCH TỪ CHỈ SỐ TỰDO KINH TẾ THẾ GIỚI 2022 CỦA VIỆT NAM

Quan sát điểm số và thứ hạng chỉ số Tự do kinh tế thế giới của Việt Nam từ năm 2000 đến nay (Hình I-1) cho thấy năm 2011 là năm đánh dấu sự chuyển mình của Việt Nam về tư duy điều hành kinh tế thông qua các chương trình tái cơ cấu kinh tế sâu rộng. Về cơ bản, đó là sự từ bỏ tư duy chính sách kích cầu dễ dãi dựa vào khu vực doanh nghiệp nhà nước vì mục tiêu tăng trưởng ngắn hạn. Công tác điều hành chính sách kinh tế của Chính phủ hàng năm luôn đặt ổn định vĩ mô làm ưu tiên hàng đầu. Nhờ ổn định vĩ mô, nền kinh tế dần bộc lộ một loạt điểm nghẽn cản trở sự vận hành của thị trường. Chính phủ đã kiên định tìm kiếm các giải pháp mở rộng tự do kinh tế cho người dân và doanh nghiệp thông qua các giải pháp như giảm gánh nặng thuế khoá cho doanh nghiệp, cắt giảm gánh nặng quy định hành chính liên quan đến đầu tư, kinh doanh, mở cửa thương mại quốc tế, thu hút nhà đầu tư nước ngoài, cải thiện chất lượng đầu tư công, v.v. Tất cả các giải pháp này tựu chung đã tạo ra tăng trưởng kinh tế ổn định, bền vững cho Việt Nam trong hơn một thập kỷ vừa qua.

Chỉ số tự do kinh tế thế giới đã ghi nhận những thay đổi tích cực này của Việt Nam, với sự cải thiện thứ hạng liên tục từ 141/165 năm 2011 lên 99/165 năm 2022. Tuy trong 4 năm, 2019-2022, thứ hạng của Việt Nam đã tăng đáng kể, nhưng điểm số thì lại tăng khá chậm,có thể một phần do Đại dịch Covid-19, nhưng có lẽ phần lớn là do nỗ lực cải cách có sự chững lại. Điều này đặt ra những thách thức đối với Việt Nam trong những năm tới nhằm tạo đà bước vào “kỷ nguyên vươn mình” của Việt Nam thời điểm kỷ niệm 100 năm thành lập nước vào năm 2045. Tuy thế, những bài học cải cách kinh tế của Việt Nam từ 2011 đến nay và được ghi nhận thông qua chỉ số tựdo kinh tế thế giới vẫn có thể gợi suy cho chúng ta những bài học chính sách quan trọng sau đây.

Thứ nhất, ổn định vĩ mô phải luôn là ưu tiên hàng đầu trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Việt Nam đã làm được điều này ngay cả trong bối cảnh đại dịch Covid-19. Nhờ đó, chúng ta đã có dư địa để phục hồi kinh tế nhanh chóng so với nhiều nền kinh tế khác hiện vẫn đang phải loay hoay chống lạm phát.

Thứ hai, cắt giảm chi tiêu chính phủ trong những năm qua đã giúp cho Việt Nam có dư địa giảm thuế và giảm nợ công, góp phần quan trọng vào cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy khu vực doanh nghiệp tư nhân phát triển, qua đó tạo ra nguồn thu bền vững cho ngân sách nhà nước. Trong những năm tới, Việt Nam sẽ phải cần một lượng vốn đầu tư khổng lồ để phát triển cơ sở hạ tầng. Để thành công, điều quan trọng là Chính phủ phải kiên trì chính sách coi vốn đầu tư công là “vốn mồi”nhằm thu hút đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài tham gia. Nếu như phát triển cơ sở hạ tầng phụ thuộc quá nhiều vào ngân sách nhà nước, để đáp ứng tiến độ đầu tư, việc tăng thuế và tăng nợ công là điều rất khó tránh khỏi, dẫn đến mặt bằng lãi suất chung của nền kinh tế tăng, khiến cho cộng đồng doanh nghiệp gặp khó khăn, khả năng cạnh tranh thu hút vốn đầu tư của Việt Nam so với các quốc gia khác sẽ bị suy giảm.

Thứ ba, mở rộng thương mại quốc tế cho nhiều quốc gia và khu vực đã chứng tỏ luôn mang lại nhiều điều tốt hơn là điều xấu cho nền kinh tế. Không nghi ngờ gì, khi mở cửa, một bộ phận doanh nghiệp và người dân trong nước sẽ gặp khó khăn do chịu áp lực cạnh tranh từ nước ngoài. Nhưng kèm theo đó là sự học hỏi từ các đối tác giúp cho người dân và doanh nghiệp trong nước điều chỉnh và dịch chuyển cơ cấu ngành nghề. Trong thời gian tới, Chính phủ cần tập trung rà soát, loại bỏ các rào cản thương mại phi thuế quan không thực cần thiết để giúp các doanh nghiệp trong nước tận dụng tốt hơn cơ hội kinh doanh từ các hiệp định thương mại quốc tế.

Thứ tư, đã đến lúc Việt Nam cần mạnh dạn mở cửa hơn nữa thị trường vốn,giao dịch ngoại tệ cũng như thu hút người nước ngoài đến du lịch cũng như làm việc tại Việt Nam. Tất cả các bài toán đặt ra liên quan đến thu hút đầu tư nước ngoài vào phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng các trung tâm tài chính quốc tế, thúc đẩy khởi nghiệp công nghệ, v.v. đều đòi hỏi phải mở cửa thị trường vốn. Bài học từ việc mở rộng visa điện tử cũng như kéo dài thời gian lưu trú đã thu hút được khách du lịch nước ngoài quay trở lại trong hai năm vừa qua gợi mở cho việc chúng ta nên cân nhắc đơn phương miễn thị thực cho công dân của nhiều quốc gia khác,tương tự như cách mà nhiều nước trong ASEAN đã làm.

Thứ năm, tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hoá và thoái vốn khỏi doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước cần mạnh dạn rút khỏi những ngành nghề mà doanh nghiệp tư nhân trong nước đã có đủ năng lực cung ứng hàng hoá và dịch vụ, đặc biệt là trong các lĩnh vực: nông nghiệp, chế biến thực phẩm, hoá chất,sản xuất thép, xây dựng, vận tải, logistics, cung cấp điện (ngoại trừ một số nhà máy thuỷ điện lớn), bán lẻ, tài chính-ngân hàng v.v. Việc nhà nước rút khỏi những ngành nghề này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân trong nước phát triển năng lực sản xuất, làm tiền đề để vươn ra bên ngoài trong kỷ nguyên mới.

Thứ sáu, cần nhanh chóng điều chỉnh lại các mức thuế thu nhập, theo hướng mức thuế cận biên thấp hơn và ít bước nhảy hơn. Đây là những điều kiện cần thiết để thu hút và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Chúng ta cũng nên nghiên cứu thay đổi chính sách đóng và quản lý bảo hiểm xã hội theo hướng tăng cường sự tham gia của thị trường để bảo đảm có nguồn trả hưu trí bền vững trong tương lai. Đây là những bất cập đã được dư luận nhắc đến trong nhiều năm qua nhưng vẫn chưa có giải pháp cụ thể.

Và cuối cùng, cần đẩy mạnh hệ thống tư pháp theo hướng độc lập hơn, liêm chính hơn, và công bằng hơn. Cần chuyển giao một phần nhiệm vụ rà soát sửa đổi,loại bỏ các quy định, văn bản dưới luật trái với Hiến pháp, luật được Quốc Hội phê chuẩn sang cho các thẩm phán thay vì tiếp tục coi đây là nhiệm vụ của các cơ quan chính phủ hay Quốc Hội. Việc trao quyền này cho các thẩm phán sẽ tạo sức ép đối với các cơ quan hành pháp phải cẩn trọng hơn khi ban hành văn bản dưới luật. Hệ thống tư pháp độc lập, liêm chính và công bằng cũng chính là giải pháp căn cơ để chống tham nhũng bền vững, đồng thời bảo vệ doanh nhân yên tâm làm ăn, kinh doanh và cán bộ nhà nước làm đúng chức năng nhiệm vụ của mình.

Xem toàn văn báo cáo tại file PDF