![[Tinh thần dân chủ] Chương 11: Châu Phi, vượt qua quyền lực cá nhân (Phần 1)](http://thitruongtudo.vn/upload/01_bai_viet/k22071_13.1_(1).jpg)
[Tinh thần dân chủ] Chương 11: Châu Phi, vượt qua quyền lực cá nhân (Phần 1)
Chuyến đi đầu tiên của tôi tới Nigeria là vào tháng 12 năm 1974 và đây gần như là chuyến cuối cùng. Tôi tới Lagos trên một chuyến bay vào buổi sáng sớm, phấn chấn bởi nhịp đập của cuộc sống, nhưng đã nhanh chóng cảm thấy kiệt sức vì nóng và chưa được chuẩn bị cho những sự kiện diễn ra sau đó. Tôi tới trong những ngày hoàng kim của vụ bùng nổ dầu mỏ lần thứ nhất. Năm trước, giá dầu đã tăng gấp bốn lần trong khi sản lượng dầu của nước này đã lên tới 2 triệu thùng mỗi ngày – trở thành nước xuất khẩu dầu mỏ lớn. Doanh thu từ dầu mỏ của Nigeria đã tăng gấp ba lần và chính phủ đang vung tay quá trán trong các khoản chi tiêu và xây dựng. Ai cũng hi vọng rằng phát triển sẽ gia tăng đột ngột và sẽ có chuyển đổi từ chế độ quân sự để trở về với chế độ dân chủ.
Sau khi thông quan, tôi đi thẳng vào trung tâm thành phố để tìm khách sạn. Người lái xe taxi, Johnny, một người vui tính và dễ chịu, tỏ vẻ hoài nghi khi nghe nói đến số tiền ít ỏi mà tôi có thể chi tiêu. Anh ta kiên nhẫn đưa tôi tới hết phòng trọ đầy gián này đến phòng trọ đầy gián khác, cho đến khi chúng tôi mặc cả xong, cao hơn khả năng của tôi và bẩn hơn tôi có thể tưởng tượng. Tôi cảm ơn Johnny và hỏi tôi phải trả anh ta bao nhiêu.
Anh cười lớn và nói: “Tiền bạc, đừng lo. Tôi đã là bạn ông. Bây giờ tôi phải giúp ông đổi tiền”.
“Tôi có thể đổi séc du lịch ở ngân hàng”, tôi đáp.
“Không”, anh ta bực bội nói, “ngân hàng sẽ lừa ông đấy. Tôi sẽ giúp ông đổi với tỉ lệ cao hơn”.
Mệt mỏi sau chuyến bay dài, tôi miễn cưỡng cuốc bộ theo Johnny qua những đường phố trên đảo Lagos. Chúng tôi đi trên con đường dẫn tới quán bar của một khách sạn sang trọng và gặp ở đấy một nhân vật của hãng chuyên săn lùng diễn viên: nụ cười nham hiểm, kính đen, sặc mùi rượu ngay vào lúc mười giờ sáng. Tôi nghĩ: “Phải ra khỏi đây ngay”. Tôi mời họ uống bia và chúng tôi nói vài câu xã giao. Sau đó chúng tôi bắt đầu nói về tỉ giá. Người đổi tiền đề xuất trước. Tôi cười mà cảm thấy lo.
“Thấp hơn mức ở ngân hàng”, tôi nói. (Trên thực tế, còn thấp hơn hơn cả lãi suất chính thức). “Tôi không muốn làm phiền các vị. Tôi sẽ tới ngân hàng”.
Nhưng Johnny nằng nặc nói: “Các ngân hàng sẽ lừa bạn. Họ sẽ đòi hoa hồng. Ông là bạn của tôi. Tôi yêu người Mỹ. Tôi sẽ lo cho ông”. Chúng tôi tiếp tục mặc cả cho đến khi tôi giành được tỉ giá cao hơn so với tỉ giá chính thức. Tôi nói OK và đồng ý đổi một ít, ít hơn hẳn so với hi vọng của họ. Chúng tôi đi vòng quanh con đường phía sau khách sạn, đổi tiền xong, sau đó Johnny và tôi đi về khách sạn. Tôi cảm ơn Johnny và hỏi phải trả anh ta bao nhiêu.
“Đừng lo lắng về tiền bạc”, anh ta nói, “chúng ta là bạn bè. Làm vại bia nữa”. Buồn ngủ quá, tôi mời anh ta vại bia nữa. Sau đó, tôi bảo Johnny là tôi thanh toán với anh ta. Anh ta đưa ra con số cực kì lớn. “Anh nói đùa”, tôi bảo, thâm tâm cảm thấy rất lo lắng. Giọng anh ta căng thẳng hẳn lên. Anh ta đã đưa tôi đi khắp nơi để tìm khách sạn. Anh ta đã giúp tôi đổi tiền. Anh ta đã trở thành “bạn” của tôi và đã là bạn thì không được tranh cãi về vấn đề tiền nong. Anh ta không nói thêm, nhưng cũng không cần, tôi còn quá ngây thơ nên đã không mặc cả từ trước. Tôi lễ phép cảm ơn và nói với anh ta rằng khoản phí mà anh ta đưa ra là không thể tưởng tượng nổi. Chúng tôi nói đi nói lại mãi, trong khi anh ta uống hết vại bia và bảo mang ra vại nữa. Cuối cùng, tôi đặt khá nhiều tiền lên bàn – nhiều hơn tôi có thể tưởng tượng về việc trả cho “công” của anh ta, nhưng ít hơn hẳn so với khoản mà anh ta đòi hỏi và nói: “Tiền của anh đây”. Anh ta nổi giận. “Anh trai tôi là cảnh sát”, anh ta lạnh lùng nói. “Tôi không muốn phải nói với anh ấy về việc ông đổi tiền trên thị trường chợ đen”. Ồ không, tôi nghĩ. Anh ta đồng ý nhận một “phần” nhưng nói rõ rằng sẽ trở lại uống bia nữa và tiếp tục làm ăn với nhau.
Nhờ sự giúp đỡ tận tình và thông minh của một quan chức mới vào nghề ở đại sứ quán Hoa Kỳ, David Lyon, người cũng vừa mới tốt nghiệp đại học như tôi, mà tôi có thể tránh được nanh vuốt của Johnny và tiếp tục ở lại hết tháng theo kế hoạch. Trải nghiệm này đã làm thay đổi cách nghĩ của tôi về các nước đang phát triển.
Ở Nigeria, tôi gặp một đất nước đang lên cơn sốt về kinh tế và chính trị. Không chỉ là vụ bùng nổ đột ngột về kinh tế và sự biến dạng các giá trị do đồng tiền kiếm được một cách dễ dàng và nhanh chóng tạo ra. Còn có nạn tham nhũng tràn lan, không chỉ là những vụ nhỏ như tôi đã hứng chịu, mà là những vụ hối lộ lớn và trộm cắp rất nhiều nguồn lực công. Báo chí viết và tin đồn về các bộ trưởng liên bang và các thống đốc-quân nhân ngày càng giàu lên một cách trâng tráo, trong khi dân thường sống nghèo khó – ở trung tâm thành phố Lagos có những túp lều bằng tôn, cống rãnh sặc mùi hôi thối và trẻ em mặc những thứ chẳng khác gì giẻ rách. Sau khi các quan chức đặt mua 16 triệu tấn xi măng, “vượt xa nhu cầu thực tế hay năng lực của cảng”, cảng biển chính “bị tắc nghẽn trong nhiều tuần lễ liền với hàng trăm con tàu mòn mỏi chờ đợi... trong khi xi măng vón cục trong lòng tàu.”1 Xăng dầu bỗng khan hiếm một cách đầy bí ẩn, hàng đoàn người phải xếp hàng từ sáng sớm đến tối mịt ở các trạm xăng.
Năm năm đầu sau khi Nigeria giành được độc lập vào năm 1960, bạo lực và tham nhũng hoành hoành. Nền Đệ Nhất Cộng Hòa bị giới quân nhân lật đổ bằng một cuộc đảo chính vào tháng 1 năm 1966, và năm sau, các tỉnh miền Đông Nam tìm cách li khai, gây ra cuộc nội chiến Biafra kéo dài từ năm 1967 đến năm 1970. Năm 1974, người cầm quyền ở Nigeria, tướng Yakubu Gowan – từng giúp đất nước khôi phục và thống nhất sau chiến tranh – ngày càng xa lánh nhân dân. Ông ra lệnh hoãn vô thời hạn quá trình chuyển tiếp trở lại với chế độ dân chủ mà ông ta từng hứa hẹn, báo chí và xã hội dân sự ngày càng thẳng thắn trong cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí và chế độ độc tài của chính phủ. Thông qua các cuộc đình công, tẩy chay và các cuộc biểu tình, đặc biệt sinh viên đòi chính phủ phải có trách nhiệm giải trình và quyền tự do. Các sĩ quan quân đội không được giữ những vị trí béo bở lo ngại rằng Gowan sẽ làm cho lực lượng vũ trang bị mang tiếng xấu. Ngày 29 tháng 7 năm 1975, họ đã lật đổ ông này bằng một cuộc đảo chính không đổ máu, đây là cuộc đảo chính thứ ba trong vòng có chín năm. Chế độ quân sự mới của tướng Murtala Muhammad tung ra một cuộc điều tra, sa thải hơn mười ngàn công chức lạm dụng quyền lực hoặc thiếu hiệu năng và sau đó công bố thời gian biểu chính xác cho quá trình phục hồi dân chủ. Và chế độ này đã thực hiện điều đó, mặc dù chỉ sáu tháng sau khi nắm quyền, Muhammad đã bị sát hại trong một cuộc đảo chính bất thành.
Lễ tuyên bố thành lập nền Đệ nhị Cộng hòa Nigeria được tiến hành vào ngày 01 tháng 10 năm 1979, về nhiều khía cạnh, là dấu hiệu nổi bật cho tự do, thịnh vượng và hứa hẹn về phát triển ở trong nước. Mặc dù có những cuộc tranh cãi xung quanh cuộc bầu cử tổng thống, căng thẳng sắc tộc quá sâu sắc và những lời kết án về gian lận bầu cử, nhưng niềm hi vọng chưa từng có cũng đã xuất hiện. Sau cuộc tranh luận kéo dài về hiến pháp, cả công chúng lẫn các nhà chính trị học cùng tham gia, Nigeria đã áp dụng hệ thống tổng thống, theo mô hình của Hoa Kỳ, cùng với cơ chế kiểm soát và đối trọng quyền lực nhằm ngăn chặn việc lạm dụng chức quyền, ủy ban bầu cử độc lập, cơ quan phòng chống tham nhũng, tòa án tối cao và hệ thống liên bang được thiết kế công phu nhằm quản lý xung đột sắc tộc và chế độ phân quyền và nguồn lực. Năm đảng khác nhau, mỗi đảng kiểm soát ít nhất hai trong số mười chính quyền bang và đảng cầm quyền trong toàn bộ liên bang là đảng đa sắc tộc nhất trong lịch sử Nigeria. Đất nước lại bùng nổ về mặt kinh tế, giá dầu trên thế giới đã tăng sau cuộc Cách mạng ở Iran năm 1979. Từ năm 1978 đến năm 1980, doanh thu từ dầu mỏ của Nigeria (chiếm gần như tất cả các nguồn thu từ xuất khẩu và hơn 50% thu nhập của chính phủ) tăng hai lần rưỡi. “Năm 1980, doanh thu của liên bang đạt 12 tỉ USD” và dự trữ ngoại tệ của Nigeria nhanh chóng tăng lên đến hơn 10 tỉ USD.2
Đơn giản là cần chống lại quá nhiều thứ. Khi tôi trở lại Nigeria vào mùa hè năm 1981, nền Cộng hòa Đệ nhị đã trở thành đồ bỏ và cướp bóc đang diễn ra ở quy mô làm người ta phải kinh ngạc. Chính phủ liên bang và chính quyền các bang chi tiêu bừa bãi. Họ thích nhất là những dự án xây dựng, đặc biệt là những dự án với “quản lí phí” ban đầu lớn, phần lớn trong số đó sẽ rơi trở lại vào túi những quan chức đã trao hợp đồng cho nhà thầu. Ngay sau khi thu được những khoản lệ phí béo bở, nhiều dự án đã nhanh chóng bị bỏ dở. Giả sử thu nhập từ dầu khí vẫn chưa đủ thì chính quyền bang sẽ vay nước ngoài bất cứ thứ gì mà các ngân hàng có thể cấp cho họ. Câu chuyện ồn ào về những vụ tham nhũng cực kì lớn bắt đầu nổi lên, trong đó có “sai sót trong việc cấp phép nhập khẩu trị giá 2,5 tỉ USD của bộ trưởng thương mại, các nghị sĩ bị nghi là đã nhận một khoản hối lộ lớn của một công ty Thụy Sĩ, tin đồn ở London về một vị thống đốc Nigeria tìm cách đưa hàng triệu naira (tiền Nigeria – ND) vào nước Anh, và tiết lộ của một bộ trưởng liên bang rằng nước này mất gần một tỉ đô la mỗi năm vì trả lương cho các công chức ma.”3 Sự phẫn nộ của quần chúng bùng lên vào đầu năm 1983, đấy là khi một trong những tòa nhà cao nhất Lagos, trụ sở của công ty viễn thông của chính phủ, đã bị ngọn lửa thiêu rụi, mà như xã luận trên một tờ báo thì đây là “hành động có tính toán, được lập kế hoạch và thực hiện nhằm che dấu nạn tham nhũng và tham ô trong công ty này.”4
Nhưng không chỉ các chính trị gia đã giàu lên quá nhanh, mà nhân dân đã bị tước đoạt ngay trước mắt. Trong những năm 1982-1983, khi tôi giảng dạy tại Đại học Bayero ở Kano, một thành phố lớn ở miền Bắc, chủ yếu là người Hồi giáo, thư viện không có sách (không nói tới hiệu sách), thày giáo phải tự tìm tài liệu, đôi khi phải tự tìm cả giấy và phấn. Chỉ có vài chỉ dấu nhỏ về sự khan hiếm giữa lúc của cải đang bùng nổ. Hầu như bang nào cũng có những khung nhà bệnh viện và trường học chưa xây dựng xong, những con đường đầy ổ gà, rất nguy hiểm, những chiếc máy ủi bị vất bên đường, những chiếc máy bơm rỉ sét bên cạnh những cái giếng chưa khoan xong trong những cộng đồng không có nguồn nước uống sạch. Ngay cả đối với những người đã nghiên cứu sự thất bại của nền Đệ Nhất Cộng Hòa, sự tham lam liều lĩnh của những chính trị gia của nền Đệ Nhị Cộng hòa vẫn làm họ choáng váng.
Trộm cắp và lãng phí đã gây ra những hậu quả có tính phá hoại. Khi vụ bùng nổ dầu khí thứ hai xẹp vào năm 1983, và cuối cùng, vụ bùng nổ tất cả các loại khoáng sản khác cũng diễn ra tương tự, doanh thu giảm từ 24 tỉ vào năm 1980 xuống còn 10 tỉ. Việc nhập khẩu các nguyên liệu dùng trong công nghiệp và hàng hóa bị gián đoạn một cách nghiêm trọng, nạn khan hiếm và sa thải nhân viên trở thành phổ biến. Giá cả tăng vọt. Nạn đầu cơ tích trữ, đặc biệt là gạo, do các chính trị gia và những cơ sở kinh doanh được họ che chở càng làm cho tình trạng khan hiếm trở thành trầm trọng thêm. Nguồn thu cạn kiệt, chính quyền các bang không có tiền trả lương giáo viên và công chức, cũng không có tiền mua thuốc cho các bệnh viện. Nhiều dịch vụ đã bị đóng cửa vì nhân viên đình công. Nền kinh tế dường như đang đứng trên bờ vực sụp đổ. Nhân dân khát khao thay đổi chính trị.
Nhưng khi phần lớn cơ hội thăng tiến đều bị nhà nước kiểm soát – và khi mà những cơ hội đó có thể có nghĩa là cơ hội làm giàu – thì khó buộc các chính trị gia chơi theo các quy tắc của trò chơi dân chủ. Nếu họ nói dối, hối lộ, tham ô, buôn lậu, và lạm dụng chức quyền nhằm tích lũy tài sản bất hợp pháp thì họ cũng sẽ nhét đầy các hòm phiếu, ăn cắp phiếu bầu, mua các quan chức bầu cử, đe dọa phe đối lập và giết các đối thủ nhằm giành lấy hoặc tiếp tục nắm giữ quyền lực. Trước cuộc bầu cử năm 1983, những cuộc đụng độ đầy bạo lực đã gia tăng nhanh chóng, làm chết hàng chục người. Đáng ngại hơn, một tờ báo ở Lagos cảnh báo: “Chúng tôi đã mệt mỏi vì ca tụng chính trị như là nghi thức của sự chết chóc.... Nếu chính trị không thể khuyến khích việc công nhận và tôn trọng những quyền con người căn bản... thì chúng tôi xin được tránh xa các chính khách và phong cách hoạt động chính trị đẫm máu khét tiếng của họ.”5 Các sinh viên biểu tình bắt đầu kêu gọi chế độ quân sự quay trở lại.
Các chính trị gia của Nigeria không thèm để ý đến những lời cảnh báo này và tiếp tục đầu độc các cuộc bầu cử bằng sự bất tài, gian lận và thiên vị của cơ quan quản lý hành chính. Hàng triệu tên cử tri hợp pháp không có trong bản danh sách, trong khi danh sách lại lớn hơn hai lần số cử tri đủ điều kiện đi bầu. Liên minh đối lập mới hình thành bị ngăn cản, không cho tiến hành chiến dịch tranh cử. Cứ sau mỗi tuần trong năm tuần trước khi diễn ra cuộc bầu cử cho các cấp chính quyền khác nhau là những hành vi sai trái trong tổ chức bầu cử lại gia tăng ngoạn mục hơn.
Các quan chức bầu cử mọi cấp đều được đút lót để họ làm giả kết quả. Một số cộng đồng bị tước quyền bầu cử. Nhân viên (của đảng cầm quyền) hợp tác với các quan chức bầu cử và cảnh sát nhằm ngăn chặn nhân viên của phe đối lập, không cho họ quan sát quá trình bỏ phiếu và kiểm phiếu. Không có kiểm tra (được luật bầu cử bảo đảm), người ta đã đưa ra và công bố những kết quả không thể nào tin nổi.6
Tổng thống Shehu Shagari tái đắc với đa số phiếu áp đảo. Một tuần sau, đảng cầm quyền gần như tăng gấp đôi số người giữ chức thống đốc các bang để trở thành đa số, giành lấy những bang mà họ không thắng cử một cách hợp pháp và sau đó đúng một tuần nữa, họ giành được hai phần ba số ghế trong quốc hội.
Khi ghi chép lời kể của các nhân chứng, tôi không thể thốt lên lời bởi qui mô của hành động lừa dối trong quá trình bầu cử vượt quá sức tưởng tượng. Gần cuối năm sống ở Nigeria, tôi đến đại sứ quán Hoa Kỳ và theo lời mời của ông đại sứ Thomas Pickering, tôi đã gặp tất cả các những người đứng đầu ban an ninh trong một căn phòng không có cửa sổ. “Sắp xảy ra đảo chính”, tôi cảnh báo. Tùy viên quân sự tỏ ra khó chịu. Ông ta biết tất cả các tướng lĩnh cao cấp nhất và chắc chắn họ được chế độ dân sự “chăm sóc” – nghĩa là đã bị mua chuộc bằng những món tiền lớn. Ông cố vấn chính trị nhận xét rằng tổng thống đã cải tổ nội các và chính sách, và đất nước đã an bình rồi. (quan chức cao cấp đã ghi nhận lời cảnh báo của tôi một cách nghiêm túc chính là đại sứ Pickering, một trong những nhà ngoại giao Hoa Kỳ tài ba và ăn mặc đẹp nhất trong suốt nửa thế kỉ vừa qua). Tuy nhiên, đối với tôi cuộc bầu cử vừa rồi là một trò hề, đất nước đang sôi lên vì tức giận và tính chính danh của nền Đệ nhị Cộng hoà đã tiêu tan. Tất cả người dân trên cả nước đều muốn thay đổi về mặt chính trị. Nhưng khi mà biện pháp thay đổi một cách hòa bình, thông qua thùng phiếu, đã bị tước đoạt thì vũ lực sẽ được sử dụng. Ba tháng sau, ngày 31 tháng 12 năm 1983, quân đội Nigeria đã lật đổ chính phủ, trong niềm hân hoan của nhân dân trên khắp cả nước. Hàng trăm chính trị gia cũ bị bắt và những khoản tiền rất lớn bị thu giữ ngay tại nhà của những người này.
Giả định của những người cổ vũ cho cuộc đảo chính – và tôi phải thú nhận là ban đầu tôi cũng hi vọng thế – là chế độ quân sự sẽ không kéo dài và có tính sửa sai. Nhưng không phải, nó đã kéo dài một thập kỉ rưỡi, dưới quyền ba nhà độc tài khác nhau, người sau đàn áp dữ dội hơn và tham nhũng hơn người trước. Trong vòng tám năm, nhà độc thứ hai và quỷ quyệt nhất, Ibrahim Babangida, tìm cách ở lại đỉnh cao quyền lực (trong khi giàu lên nhanh chóng) bằng lời hứa và sau đó dàn dựng công cuộc chuyển đổi sang dân chủ theo từng giai đoạn một cách công phu, dưới áp lực thường xuyên của xã hội dân sự được tổ chức chặt chẽ và dũng cảm. Nhưng Babangida trì hoãn, tiếp tục trì hoãn và lập đi lập lại thời khóa biểu cho quá trình chuyển tiếp, cấm các đảng phái và các ứng cử viên, trong khi tổ chức đáng ngờ là “Hiệp hội vì một Nigeria tốt đẹp hơn” xuất hiện, đề nghị ông ta tiếp tục nắm quyền. Cuối cùng, mặc cho những nỗ lực của Babangida, cuộc bầu cử tổng thống đã diễn ra và một nhà doanh nghiệp lới có đầu óc độc lập, Moshood K. O. Abiola, được bầu làm tổng tống, Babangida tìm được cớ để hủy bỏ các cuộc bầu cử trước khi kết quả có thể được chính thức công bố. Cuộc biểu tình bạo lực đã nổ ra ở quê Abiola, Yoruba, Tây Nam đất nước này và Babangida buộc phải từ chức, nhưng chế độ quân sự tiếp tục tồn tại dưới quyền phó tổng thống thứ nhất, tướng Sani Abacha.
Abacha đã chứng tỏ là kẻ cướp bóc dữ dội hơn, vô liêm sỉ hơn và tàn nhẫn hơn. Xã hội dân sự lại đứng lên phản đối, đàn áp gia tăng và khoản nợ nước ngoài lên đến 30 tỉ USD. Cuối cùng, tháng 6 năm 1998, những tướng lĩnh hàng đầu – lo lắng về sự suy thoái của đất nước và các lực lượng vũ trang – bị nghi là đã làm cho Abacha bị “một cơn đau tim” khi còn nằm vòng tay của một gái mại dâm nước ngoài và sau đó tổ chức quá trình chuyển đổi nhanh chóng sang dân chủ.7 Cuộc bầu cử được tổ chức vào đầu năm 1999, tướng Olusegun Obasanjo được bầu làm tổng thống, ông cũng là người tiến hành công cuộc chuyển hóa lần thứ nhất từ chế độ quân sự sang chế độ dân sự.
Tám năm tiếp theo là một chu kì thất hứa và tuyệt vọng nữa. Như đã nói trong Chương 3, cuộc bầu cử năm 2003 đã bị gian lận đến mức lố bịch, Obasanjo và Đảng Dân chủ Nhân dân của ông ta tiếp tục nắm quyền với đa số áp đảo. Trong khi Obasanjo tiến hành một số cải cách kinh tế, ông ta vẫn cai trị như một viên tướng và tìm mọi cách loại bỏ điều cấm đã được ghi trong hiến pháp về việc một người không được giữ ba nhiệm kì tổng thống. Cuộc bầu cử năm 2007, được tiếp sức bởi vụ bùng nổ mới trong kĩnh vực khai thác dầu và kết quả là chiến thắng long trời lở đất lố bịch đến mức khó tin của đảng cầm quyền – còn tồi tệ hơn so với năm 2003, với khoảng hai trăm người chết và làm cho Liên minh châu Âu, vốn có thái độ nhẹ nhàng, tung ra báo cáo của ủy ban quan sát bầu cử với lời phê phán nặng nề nhất từ trước tới nay.8 Nigeria tiếp tục bị mắc kẹt trong một trong những nghịch lý khắc nghiệt có thể gây mất ổn định nhất trên thế giới: Người dân sẽ không chấp nhận chế độ độc tài kéo dài, còn các chính trị gia thì không chấp nhận chế độ dân chủ chân chính.
Chú thích:
(1) Peter Lewis, Growing Apart: Oil, Politics, and Economic Change in Indonesia and Nigeria (Ann Arbor: University of Michigan Press, 2007), p. 140.
(2) Ibid., p. 155.
(3) Larry Diamond, “Nigeria: The Uncivic Society and the Descent into Praetorianism”, in Larry Diamond, Juan J. Linz, and Seymour Martin Lipset, eds., Politics in Developing Countries: Comparing Experiences with Democracy (Boulder, Colo.: Lynne Rlenner, 1995), p. 437.
(4) Quoted in Ibid.
(5) Punch, March 31, 1983.
(6) Diamond, “Nigeria”, pp. 439-40.
(7) Hoàn cảnh dẫn đến cái chết của Abacha có lẽ sẽ mãi mãi là điều bí ẩn. Nhiều nhà lãnh đạo chính trị và hoạt động dân sự tin rằng các quân nhân đã khử ông ta nhằm cứu đất nước và quân đội. Tờ Economist viết rằng ông ta “thở hắt ra trong vòng tay của hai cô gái điếm người Ấn Độ, có thể là do đã uống Viagra quá liều”. “Big Men, Big Fraud, Big Trouble”, Economist April 28, 2007, p. 55.
(8) Ibid.
Nguồn: Larry Diamond (2008). Tinh Thần Dân Chủ. Phạm Nguyên Trường dịch. Nguyên tác: The Spirit of Democracy (2008)