[Nhập môn về chủ nghĩa tư bản] - Chương 3: Vốn là gì?

[Nhập môn về chủ nghĩa tư bản] - Chương 3: Vốn là gì?

Khái niệm vốn

Tư bản hay vốn như chúng ta đã thấy, là một ý niệm trừu tượng, tương tự như khái niệm động vật. Nhưng, trong khi hầu hết mọi người có thể nhận ra một thứ gì đó như là một con vật khi họ nhìn thấy nó, thì rất ít người thực sự hiểu vốn là gì – ngay cả những người sở hữu và sử dụng nó.

Một lần nữa, nhiều người hình dung tư bản như là các nhà máy, tòa nhà, cần cẩu, máy ép kim loại khổng lồ và các quỹ tài chính, nó củng cố ý tưởng cho rằng chỉ một số ít người giàu có mới sở hữu vốn. Nhưng thực tế là hầu như tất cả người dân ở các nước đã phát triển đều sở hữu và sử dụng hàng hoá vốn và mang lại lợi ích cho những người khác. Người ta thậm chí có thể nói rằng hàng hoá vốn có tính dân chủ.

Mục đích của vốn

Cần phải hỏi rằng vì sao vốn lại có mặt ngay từ đầu. Câu trả lời là chúng ta tạo ra hàng hoá vốn để giúp chúng ta sản xuất - hiệu quả hơn - nhiều hàng hóa và dịch vụ mà chúng ta cần và muốn có hơn. Chúng tạo điều kiện cho chúng ta sản xuất quần áo, thức ăn, chỗ ở, ánh sáng, lò sưởi, thuốc men, giáo dục, đồ chơi, phương tiện giao thông, thông tin liên lạc, nghệ thuật, giải trí và tất cả những thứ khác mà chúng ta muốn, rẻ hơn và hiệu quả hơn so với khi sản xuất mà không có những hàng hoá vốn này.

Quan trọng cần nhớ là, lý do duy nhất để chúng ta sản xuất ra đồ vật là vì chúng ta muốn thưởng thức những đồ vật này. Như nhà kinh tế học người Scotland, Adam Smith (1723−90), đã nói, “Tiêu dùng là cứu cánh và mục đích duy nhất của tất cả các hoạt động sản xuất”. Tuy nhiên, nhiều người phê phán chủ nghĩa tư bản tập trung vào việc tái cơ cấu nền sản xuất, mà không suy nghĩ trước hết về lý do vì sao chúng ta sản xuất hàng hóa, hoặc không suy nghĩ về những món hàng hóa mà chúng ta muốn sản xuất. Nhưng thời gian, nỗ lực và trí tuệ của chúng ta đều rất quý giá, không thể lãng phí được. Chúng ta cần tập trung vào sản xuất những món hàng hóa mà chúng ta cần hoặc muốn có, và sản xuất chúng một cách nhanh chóng nhất, dễ dàng nhất và rẻ nhất.

Vốn làm gia tăng năng suất như thế nào

Chúng ta tạo ra và sử dụng vốn vì nó giúp chúng ta làm việc với năng suất cao hơn. Ví dụ, sử dụng thuyền, dây câu và lưới, chúng ta có thể bắt được nhiều cá hơn hẳn so với bắt cá bằng tay không. Sử dụng máy kéo và máy gặt, chúng ta có thể làm đất và sản xuất được nhiều lương thực hơn với ít công sức hơn. Sử dụng máy dệt chạy điện, chúng ta có thể xử lý nhiều bông hơn, biến chúng thành nhiều quần áo một cách nhanh chóng hơn và rẻ hơn. Sử dụng xe tải, chúng ta có thể nhanh chóng và dễ dàng phân phối các sản phẩm này đến những nơi cần thiết nhất.

Trên thực tế, hàng hoá vốn có thể mang lại những cải tiến làm người ta phải kinh ngạc về năng suất, tạo điều kiện cho chúng ta sản xuất mọi thứ hàng hóa với số lượng hoặc chất lượng cao hơn hẳn và với chi phí thấp hơn hẳn. Tác giả người Anh, Matt Ridley (1958−) tính toán rằng đèn điện hiện nay cung cấp cho chúng ta ánh sáng rẻ hơn 43.200 lần so với những ngọn nến trong năm 1800, trong khi sản lượng nông nghiệp cao gấp 600 lần so với năm 1900. Khi người ta phải sao chép lại sách bằng tay, thì chỉ một ít người giàu mới có thể đủ tiền mua sách; trong khi các máy in hiện đại in ra hàng triệu bản, số sách được tải trực tuyến còn nhiều hơn nữa. Quần áo bằng vải bông cũng từng là xa xỉ phẩm; cuộc Cách mạng Công nghiệp đã làm cho quần áo rẻ hơn hàng trăm lần và có sẵn cho người dân trên khắp thế giới. Những chiếc đồng hồ đeo tay đi ra khỏi dây chuyền sản xuất hiện nay mỏng hơn, chính xác hơn và có giá chỉ bằng một phần nghìn chiếc đồng hồ bỏ túi được chế tạo theo lối thủ công trong thế kỷ XIX.

Hàng hoá vốn thậm chí còn tạo điều kiện cho chúng ta sản xuất ra những món hàng hóa mà nếu không có chúng thì không thể nào làm được. Người châu Âu và người Mỹ hiện nay thưởng thức xoài tươi - không bị ngâm chua – là nhờ có phương tiện vận chuyển đông lạnh và vận tải hàng không làm cho xoài trở thành phổ biến. Với một chiếc điện thoại thông minh, chúng ta có thể kinh doanh với những người ở bên kia trái đất, có thể nói chuyện với bạn bè khi đang di chuyển hoặc tải về cả một thư viện tin tức, thông tin và giải trí - các bản nhạc giao hưởng tầm cỡ thế giới nằm trong túi bạn. Công nghệ nano tạo điều kiện cho chúng ta sản xuất pin mặt trời nhỏ xíu, mắt thường không nhìn thấy được, sản xuất phim sử dụng năng lượng ánh sáng để tiêu diệt vi trùng và sản xuất vải co giãn gấp mười lăm lần kích thước ban đầu.

Cùng với việc cung cấp cho chúng ta hàng hóa và dịch vụ mới, rẻ hơn, tốt hơn và phong phú hơn cho tiêu dùng trực tiếp, hàng hoá vốn còn cải thiện các yếu tố đầu vào mà chúng ta tạo ra và sử dụng trong quá trình tạo ra những món hàng hóa này. Ví dụ, máy móc tạo điều kiện cho chúng ta khai thác quặng sắt và cán thép mà chúng ta sử dụng để chế tạo ô tô hoặc máy giặt, hoặc để sản xuất thủy tinh mà chúng ta sử dụng để làm lọ đựng thực phẩm hoặc tạo ra clo mà chúng ta sử dụng để sản xuất ra nhựa tổng hợp, rồi chúng ta sử dụng nhựa để làm giày, giường, khung cửa sổ và ca nô.

Quan niệm truyền thống về vốn

Hàng hóa vật chất. Hầu hết mọi người đều nghĩ rằng hàng hoá vốn là hàng hóa vật chất, ví dụ công cụ, máy móc công nghiệp, tàu, nhà máy, hoặc có thể là văn phòng, máy tính và xe tải chuyển hàng. Những hàng hóa như vậy rõ ràng đã làm gia tăng năng suất của chúng ta bằng cách tạo điều kiện cho chúng ta sản xuất và chuyển hàng đi nhanh hơn, dễ dàng hơn và với số lượng lớn hơn so với khi không có những hàng hoá vốn này. Điều này rất rõ ràng.

Tuy nhiên, người ta thường bỏ qua rằng các thị trường hàng hoá vốn còn làm cho năng suất của những hàng hoá vốn này (và các hàng hoá vốn khác) gia tăng hơn nữa. Các thị trường đồ cũ và đồ mới làm cho máy móc, tàu thuyền, phương tiện, thiết bị và thậm chí cả các tòa nhà đều được sử dụng với giá trị cao nhất.

Ví dụ, giả sử rằng những cải tiến trong công nghệ sản xuất ắc-quy dẫn đến nhiều nhà sản xuất bắt đầu mua nhiều xe tải điện hơn và mua ít xe diesel hơn trước để sử dụng trong đội xe chuyển hàng của mình, vì chúng rẻ hơn, đáng tin cậy hơn, yên tĩnh hơn và sạch sẽ hơn. Sự thay đổi này sẽ gửi tín hiệu của thị trường đến các nhà sản xuất xe tải, rằng họ phải trang bị lại công cụ - điều chỉnh dây chuyền sản xuất của mình thì mới đáp ứng nhu cầu mới và lắp vào xe tải động cơ điện chứ không được lắp động cơ diesel nữa. Đến lượt mình, các nhà cung cấp của họ sẽ thấy rằng họ đang bán ít động cơ diesel hơn và sẽ chuyển dây chuyền sản xuất sang sản xuất các sản phẩm bán chạy hơn. Trong khi đó, xe tải và động cơ diesel cũ sẽ bị loại bỏ để kim loại có thể được sử dụng hiệu quả hơn hoặc sẽ được bán với giá rẻ trên thị trường đồ cũ cho những khách hàng vẫn còn sử dụng chúng. Bắng cách đó, hàng hoá vốn cũ và mới sẽ tự động được sử dụng hiệu quả nhất.

Vốn tài chính. Một hình thức quen thuộc khác của vốn là vốn tài chính. Ví dụ, các nhà quản lý quỹ vay tiền mà các ngân hàng nhận được từ những người gửi tiết kiệm và sử dụng khoản tiền đó để đầu tư vào các doanh nghiệp cần tiền để khởi nghiệp hoặc mở rộng năng lực sản xuất. Đối với những doanh nghiệp này, tài chính là một hàng hoá vốn tương tự như bất kỳ món hàng hóa nào khác, tạo điều kiện cho họ mua thiết bị cần thiết cho sản xuất hàng hóa một cách hiệu quả hoặc gia tăng sản lượng nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng.

Các doanh nghiệp chứng minh được rằng mình là người thành công nhất trong việc đáp ứng nhu cầu sẽ tạo ra nhiều thu nhập hơn từ những khách hàng cảm thấy hài lòng so với những doanh nghiệp ít thành công hơn: vì vậy, họ có thể mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho các nhà đầu tư và thu hút được nhiều vốn tài chính hơn. Do đó, cũng giống như vốn vật chất, thị trường vốn tài chính nhanh chóng đưa vốn tài chính đến những nơi mà nó được sử dụng một cách hiệu quả nhất.

Người ta thường cho rằng, hơn bất kỳ loại vốn nào khác, chỉ một số ít người giàu có mới có quyền sở hữu vốn tài chính. Nghĩ thế là sai: những nhà đầu tư ở tầng sâu nhất vào những quỹ này, để đến lượt mình các quỹ này lại đầu tư vào các doanh nghiệp, hầu hết là những người bình thường, họ tiết kiệm tiền để dành cho “những khi trái gió trở trời hoặc để có thu nhập khi về hưu. Đấy mới chính là những “nhà tư bản” thực sự.

Cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng, chẳng hạn như đường xá, cầu cống và bến cảng, là những hàng hóa giúp nâng cao năng suất - làm cho giao thương dễ dàng hơn và rẻ hơn – mặc dù chúng là loại vốn khác thường, thường là do chính phủ nắm chứ không thuộc quyền sở hữu của các cá nhân và nhóm tư nhân. Hiện tượng này là nguồn cơn để cho những người chỉ trích chủ nghĩa tư bản khẳng định rằng, các doanh nghiệp được cho là “tư bản”, trên thực tế, phụ thuộc rất nhiều vào nhà nước. Nhưng nói như thế là quên rằng nhiều con đường, mạng lưới đường sắt và bến cảng ban đầu là do các nhà đầu tư tư nhân hoặc những công dân quan tâm xây dựng nên - phần còn lại là lấy từ tiền thuế của các cá nhân và doanh nghiệp tư nhân. Vì vậy, ngay cả cơ sở hạ tầng “công cộng” cũng được xây dựng bằng tài sản tư nhân.

Hình thức quan trọng nhất của vốn

Dù những hình thức này có vẻ quan trọng, nhưng quan trọng nhất vẫn là loại vốn mà mỗi người chúng ta đều sở hữu - vốn con người của mỗi chúng ta.

Nhà kinh tế học người Mỹ, Gary Becker (1930−2014), không phải là người đặt ra cụm từ “vốn con người”, nhưng đã nghiên cứu ý tưởng này rất kĩ lưỡng. Vốn con người là tất cả kiến thức và phẩm chất cá nhân, giúp cho mỗi người làm việc hiệu quả hơn. Vốn con người bao gồm trình độ học vấn và kỹ năng của chúng ta, ngoài ra còn có những phẩm chất như siêng năng, và thậm chí cả khỏe mạnh nữa. Chúng ta đầu tư vào những thứ này để làm cho mình trở thành người hiệu quả hơn, tương tự như chúng ta đầu tư vào những hàng hoá vốn khác.

Do đó, chúng ta học phổ thông, học đại học và các khóa đào tạo để học các kỹ năng xã hội và thực tiễn mà chúng ta cần để có thể làm việc một cách hiệu quả. Khả năng kiếm tiền có thể là quan trọng nhất đối với chúng ta, nếu chúng ta làm việc hiệu quả hơn, thì nói chung chúng ta có thể kiếm được nhiều tiền hơn. Người sử dụng lao động đầu tư thời gian và tiền bạc để đào tạo nhân viên mới vận hành máy móc và hệ thống thông tin của họ. Các gia đình dạy con cái họ tính kỷ luật tự giác, trung thực, đáng tin cậy, đúng giờ và những giá trị khác, giúp cải thiện triển vọng trong công việc và kinh doanh của con em mình. Bằng cách đầu tư cho sức khỏe và thể lực của mình, chúng ta có thể giữ được năng suất cao hơn trong thời gian dài hơn.

Một lần nữa, có những thị trường giúp chúng ta tối đa hóa năng suất tiềm năng của mình. Đấy là các trường đại học, chúng ta có thể nhận được bằng cấp, các khóa học để chúng ta có thể phát triển kỹ năng, các cơ quan tuyển dụng sắp xếp để các kỹ năng và phẩm chất cá nhân của chúng ta với công việc phù hợp nhất với chúng ta, các câu lạc bộ thể dục giúp chúng ta khỏe mạnh hơn, các phòng khám và trung tâm phục hồi chức năng giúp phục hồi sức khỏe tinh thần và thể chất của chúng ta.

Theo truyền thống, các nhà kinh tế học coi lao động, cùng với đất đai, không phải là vốn, và ý niệm về vốn con người làm cho sự phân chia này trở nên chặt chẽ hơn. Vốn con người làm cho lao động có năng suất cao hơn, chẳng khác gì công cụ và thiết bị. Thật vậy, đối với năng suất, dường như vốn con người còn quan trọng hơn tất cả các loại vốn khác cộng lại. Dù rằng, nói chung, vốn được mọi người sở hữu nhiều hơn là người ta tưởng tượng, thì sự thực là mỗi người đều sở hữu vốn con người và hầu hết các cá nhân và gia đình đều đầu tư khá nhiều vào loại hình này. Thành công của những người nhập cư, những người đã xây dựng được những doanh nghiệp thành công từ con số không – Astor, Carnegie hay những người sáng lập Procter & Gamble, Kraft và DuPont – chứng tỏ vai trò quan trọng của giáo dục, kỹ năng và phẩm chất cá nhân, ví dụ như khả năng tập trung vào công việc và siêng năng. Sự giàu có của Hong Kong, Macao hay Singapore thì cũng thế – những khu vực nhỏ bé, chẳng có bao nhiêu tài nguyên thiên nhiên, ngoài những giá trị và đạo đức làm việc của người dân.

Mặc dù vậy, vốn con người cần có những điều kiện phù hợp để phát triển: mọi người đều được tự do đầu tư cho mình và gia đình mình, và xã hội phải tôn trọng quyền hưởng những thành quả của các khoản đầu tư đó.

Hạ tầng của các hệ thống

Cách sử dụng hàng hoá vốn là yếu tố quan trọng quyết định lợi nhuận mà chúng mang lại. Công nhân của nhà sản xuất ô tô tiên phong, Henry Ford (1863−1947), cũng sử dụng những chiếc búa, cờ lê hay cần trục giống như công nhân của các nhà máy khác; nhưng Ford đã tổ chức những hàng hoá vốn này thành dây chuyền lắp ráp, làm cho sản xuất có năng suất cao hơn hẳn so với những cách sản xuất trước đó. Hệ thống đúng đắn là một tài sản vốn có ý nghĩa quan trọng.

Mạng lưới. Mạng điện thoại, chuỗi cung ứng và hệ thống phân phối là những hình thức khác của vốn “được tổ chức”, nó làm cho truyền thông và phân phối trở nên hiệu quả hơn. Mạng lưới thông tin, chẳng hạn như internet, truyền hình tương tác và email cũng góp phần nâng cao năng suất của chúng ta: đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và trao đổi, truyền bá ý tưởng, khuyến khích đổi mới sáng tạo và khám phá những kỹ thuật mới, hiệu quả hơn. Chúng cũng làm cho những cách làm việc hiệu quả hơn trở thành khả thi - chẳng hạn như những ứng dụng “kinh tế chia sẻ” kết nối các gia đình với người trông trẻ, khách du lịch với tài xế ô tô và chủ nhà với những người đang tìm kiếm nơi tá túc.

Thị trường. Hệ thống thị trường và chủ nghĩa tư bản không phải là một. Nhưng các thị trường riêng lẻ - dù là hàng hóa, dịch vụ, tài chính hay lao động - đều được coi là những hình thức của vốn. Đấy không chỉ là phương tiện phân phối hàng hóa và dịch vụ, mà còn là sự dàn xếp hiệu quả theo cách riêng của chúng.

Tương tự như những hình thức vốn khác, thị trường đòi hỏi các khoản đầu tư - để xây dựng và giám sát các quy tắc cần thiết nhằm duy trì hoạt động của chúng, đồng thời duy trì thông tin liên lạc và các hệ thống khác mà người mua, người bán và người môi giới đều phải dựa vào.

Thị trường cũng làm cho năng suất gia tăng bằng cách lan truyền thông tin về tình trạng thừa và thiếu hụt. Ví dụ, nếu chương trình truyền hình nổi tiếng làm cho nhiều người muốn đến thăm địa điểm mà họ đã quay phim, thì các công ty lữ hành có thể sẽ buộc những người muốn tới đó phải trả thêm tiền. Họ sẽ đặt thêm máy bay, xe lửa hoặc xe buýt đi đến địa điểm đó, và không đưa người tới những điểm đến mang lại ít lợi nhuận hơn. Ngoài ra, số du khách tăng lên sẽ tạo điều kiện cho các nhà hàng và quán cà phê địa phương tăng giá, thúc đẩy thành lập những quán mới; trong khi người dân địa phương sẽ phát hiện được rằng nếu làm bồi bàn thì họ có thể kiếm được nhiều tiền hơn so với những công việc khác. Thông qua các tín hiệu về giá cả như thế, sản xuất và vốn được điều chỉnh một cách hiệu quả và tự động đến nhũng nơi  chúng được sử dụng với giá trị cao nhất.

Trên thực tế, giá cả thị trường điều phối hoạt động của rất nhiều người trên khắp hành tinh. Ngay từ năm 1776, Adam Smith đã nói rằng rất nhiều người tham gia vào việc sản xuất ngay cả một chiếc áo khoác len đơn giản: người chăn cừu, thợ kéo sợi, thợ dệt, thợ nhuộm, thương gia, thủy thủ, thợ đóng tàu, thợ chế tạo công cụ, v.v. Nhưng không có ai trong số những ngưới này có ý định sản xuất một chiếc áo khoác cụ thể cho một khách hàng cụ thể: họ chỉ đơn giản là phản ứng với giá cả thị trường, giá cả báo hiệu nơi mà những cố gắng của họ sẽ mang lại hiệu quả cao nhất. Nếu nhu cầu của khách hàng (hoặc công nghệ sản xuất) thay đổi, giá cả sẽ thay đổi và những tín hiệu mới sẽ lan truyền trong toàn bộ mạng lưới, thúc đẩy mọi người liên quan phải thích ứng với thực tại mới.

Thông qua sự phối hợp năng động như thế, các thị trường làm cho năng suất của tất cả những người sản xuất và hàng hoá vốn gắn với chúng đều gia tăng. Chúng tưởng thưởng cho những người sản xuất ra những món hàng hóa có giá trị cao và những người lập kế hoạch chu đáo, đồng thời báo hiệu cho những nhà sản xuất kém hiệu quả chuyển nỗ lực của mình sang lĩnh vực khác. Khi làm như thế, chúng cũng tiết kiệm được các nguồn lực – xét cho cùng, không ai muốn lãng phí thời gian, công sức hay vốn của mình nếu những nhân tố này có thể được sử dụng tốt hơn trong lĩnh vực khác.

Vốn pháp lý và vốn văn hóa

Công lý. Chủ nghĩa tư bản được xây dựng dựa trên hành động và tương tác tự nguyện. Những sắp đặt như thế chỉ có thể hoạt động nếu mọi người đều có thể hành động và tương tác một cách tự do, đồng thời tự tin trong khi lập kế hoạch và đầu tư. Do đó, chủ nghĩa tư bản đòi hỏi hệ thống công lý đảm bảo rằng mọi người không phải là đối tượng của bạo lực, trộm cắp hoặc gian lận, rằng các cam kết trong hợp đồng được tôn trọng, và các quyền và tự do của cá nhân được tôn trọng.

Tương tự như các thị trường, hệ thống tư pháp cũng có những dấu hiệu đặc trưng của tài sản vốn. Chúng ta đầu tư rất nhiều vào hệ thống này (lập pháp, cảnh sát, tòa án, nhà tù, v.v.), nó tương đối bền vững và giúp chúng ta làm việc hiệu quả hơn bằng cách thúc đẩy lòng tin và do đó, đảm bảo rằng chủ nghĩa tư bản hoạt động trơn tru.

Tài sản này gồm nhiều bộ phận. Ví dụ, thông luật, dựa vào đó các tranh chấp được giải quyết tại tòa án và các chuẩn mực hành vi thương mại có thể chấp nhận được được thiết lập; công lý dưới chế độ pháp quyền tuân theo các nguyên tắc xét xử công bằng (due process) và những người có chức có quyền cũng phải tuân theo luật pháp như tất cả chúng ta; và các luật lệ về chế độ dân chủ và đại diện, với những hạn chế hiến định đối với chính phủ trong việc sử dụng quyền lực của mình. Tất cả những điều vừa nói thúc đẩy lòng tin, sự chắc chắn và an ninh, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc lập kế hoạch, đầu tư và giao dịch trên thị trường, biến công lý thành tài sản vốn làm gia tăng năng suất của chúng ta.

Các quyền tài sản. Mọi người có thể thích đầu tư và tạo ra hàng hoá vốn hơn nếu biết rằng mình có thể sở hữu và kiểm soát những hàng hoá này, đồng thời sẽ được hưởng kết quả mà chúng tạo ra. Vì vậy, các luật lệ và quy ước xã hội nói về quyền sở hữu và sử dụng tài sản - chúng ta gọi là các quyền tài sản - phải tương đối chắc chắn và lâu bền. Nhưng những quyền này không phải lúc nào cũng rõ ràng (ví dụ, máy bay có được phép bay qua khu đất của bạn không, nếu có thì bay ở độ cao nào?). Và các quyền tài sản cũng thay đổi khi hoàn cảnh và quan điểm thay đổi (ví dụ, bạn có được phép sở hữu và bán cần sa?). Tuy nhiên, do trở nên tương đối trực quan và ổn định, những quyền này thúc đẩy sự tin tưởng và năng suất.

Sở hữu trí tuệ – nhãn hiệu, bản quyền và bằng sáng chế – là một loại tài sản đặc biệt, có thời hạn. Ý tưởng đằng sau những khái niệm này là đảm bảo rằng các nhà phát minh, tác giả và những người tạo dựng thương hiệu có giá trị có thể hưởng thụ thành quả của những nỗ lực của mình - nó mang lại lợi ích cho tất cả chúng ta, vì sẽ khuyến khích những người khác làm những việc tương tự như thế. Nhưng không thể cho phép doanh nghiệp hoặc những người thừa kế của người đó được hưởng mãi mãi độc quyền đối với sản phẩm hoặc phát minh: chúng ta muốn ý tưởng phát triển và lan rộng. Vì vậy, những biện pháp bảo vệ là có thời hạn. Luật lệ có thể khác nhau, tùy từng nước hay khu vực, nhưng sự thực là nguyên tắc chung được tôn trọng sẽ thúc đẩy niềm tin và năng suất.

Văn hóa và truyền thống đạo đức. Sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản và năng suất mà nó đạt được, một phần là do nền văn hóa, trong đó có sự tôn trọng lẫn nhau, những giá trị được nhiều người chia sẻ, lòng tin và sự đồng thuận về việc không sử dụng vũ lực chống lại người khác. Các thí nghiệm kinh tế chỉ ra rằng, chủ nghĩa tư bản và nền văn hóa như thế củng cố lẫn nhau: những người đến từ những khu vực mà thị trường đã đứng vững có xu hướng tin tưởng lẫn nhau hơn là những người đến từ những khu vực mà thị trường được coi là không quan trọng và nền văn hóa mà mọi người tin tưởng lẫn nhau đương nhiên làm cho việc giao thương trở thành dễ dàng hơn.

Trong các xã hội nhỏ, thuần nhất, niềm tin có thể xuất hiện một cách tự nhiên. Nhưng ở hầu hết những nơi khác, dân chúng tương đối khác nhau, niềm tin phải được xây dựng trong nhiều thế kỷ. Cần có các khoản đầu tư vào việc phát triển các giá trị và các thể chế tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản hoạt động. Vì nền văn hóa như thế là sản phẩm mà chúng ta phải nỗ lực mới tạo ra được, nó tương đối bền vững và làm gia tăng năng suất của chúng ta, nên thực chất chẳng khác gì một loại vốn.

Kết luận

Làm sao định nghĩa chính xác tư bản hay vốn có thể là vấn đề gây tranh cãi. Nhưng rõ ràng là vốn không chỉ là các nhà máy, máy móc hạng nặng, tàu thuyền và tài sản bằng tiền thuộc quyền sở hữu của một số ít người. Nó có tính dân chủ hơn hẳn. Tất cả chúng ta đều sử dụng hàng hoá vốn khi ở nhà, ở cửa hàng và văn phòng của mình. Chúng ta gửi tiết kiệm trong ngân hàng và các quỹ tài chính, đến lượt mình, những tổ chức này đầu tư vào các doanh nghiệp sản xuất. Chúng ta làm việc hiệu quả hơn bằng cách sử dụng các mạng lưới tư nhân và các mạng lưới công cộng được xây dựng bằng của cải do tư nhân tạo ra.

Chúng ta sử dụng các thị trường và các hệ thống khác để thúc đẩy năng suất lao động của chúng ta; và chúng ta tìm cũng cách duy trì nền văn hóa tin cậy. Trên hết, tất cả chúng ta đều có vốn con người ở bên trong chính mình: kiến thức, kỹ năng và năng lực của chúng ta. Tất cả chúng ta đều là các nhà tư bản, và tư bản hay vốn là cái gì đó rất đa dạng - và rất dân chủ.

Nguồn: Eamonn Butler, "An introduction to capitalism", The Institute of Economic Affairs, 2024. Phạm Nguyên Trường dịch, Đinh Tuấn Minh hiệu đính.

Dịch giả:
Phạm Nguyên Trường
Hiệu đính:
Đinh Tuấn Minh