Những luận cương liên bang (Phần 24)

Những luận cương liên bang (Phần 24)

VI. NGÀNH TƯ PHÁP

1. Bản tính và quyền lực của ngành tư pháp liên bang (2/2)

HAMILTON

Ngoài nhiệm kỳ vĩnh viễn của các vị thẩm phán, có lẽ không có yếu tố nào lại thuận tiện hơn để duy trì tính chất độc lập của các vị thẩm phán bằng điều khoản quy định những phương tiện rõ rệt để giúp cho sự sinh sống của các vị thẩm phán. Những nhận xét mà chúng ta đã từng nêu ra khi bàn tới mục nói về Tổng thống đều có thể áp dụng trong trường hợp này. Như chúng ta đã từng nhận xét về bản tính con người, khi chúng ta có thể kiểm soát được sự sinh sống của một người thì chúng ta sẽ có thể kiểm soát được ý chí của người đó. Như vậy tức là chúng ta không thể hy vọng ở một sự phân định hoàn toàn giữa ngành lập pháp và ngành tư pháp nếu ngành tư pháp phải tùy thuộc ngành lập pháp về những khoản lương bổng để sinh sống. Những người sáng suốt khi nhận xét về Hiến pháp của nhiều tiểu bang thường vẫn than phiền rằng Hiến pháp của nhiều tiểu bang không ghi rõ khoản này. Hiến pháp của một vài tiểu bang có ghi rằng các vị thẩm phán được nhận một số lương bổng thường trực, nhưng như vậy vẫn chưa đủ rõ ràng. Vì vậy, dự thảo Hiến pháp liên bang đã quy định rằng các vị thẩm phán của Hợp chúng quốc, “trong những thời gian định rõ, sẽ được nhận một số lương bổng để bù đắp cho công lao của mình, và số lương bổng đó sẽ không bị sụt giảm suốt trong nhiệm kỳ của họ”.

Điều khoản này rất hợp lý. Nhưng chúng ta cũng nên nhớ rằng giá trị đồng tiền có khi lên xuống và tình trạng sinh hoạt xã hội có khi thay đổi nên không thể quy định một số lương bổng nhất định mà không bao giờ thay đổi. Một số lương bổng ngày nay có thể coi là lớn nhưng biết đâu trong nửa thế kỷ nữa, số lương bổng đó chỉ là một số tiền rất nhỏ. Vì vậy, Hiến pháp không quy định số lương bổng cụ thể mà để quyền đó cho Quốc hội quy định sao cho thích hợp với hoàn cảnh của từng thời kỳ, còn Hiến pháp ghi là không được làm sụt giảm số lương bổng đó mà thôi. Khi một người đã được chắc chắn về cách sinh sống của mình, thì người đó có thể vững tâm để làm tròn nhiệm vụ của mình.

Chúng ta có thể nhận thấy một sự phân biệt giữa khoản quy định về lương bổng của tổng thống và khoản quy định về lương bổng của các vị thẩm phán. Lương bổng của tổng thống không được tăng và cũng không được giảm còn lương bổng của các vị thẩm phán thì chỉ không được giảm mà thôi. Vì nhiệm kỳ của tổng thống là bốn năm, cho nên số lương bổng được định đoạt khi mới bắt đầu nhiệm kỳ chẳng lẽ lại không thích hợp khi gần mãn nhiệm kỳ, nghĩa là trong vòng có bốn năm hay sao? Trái lại, các vị thẩm phán, nếu họ có hành vi đứng đắn, sẽ được giữ chức vụ vĩnh viễn suốt đời, cho nên số lương bổng mà họ có quyền lãnh khi mới bắt đầu nhận chức có thể rất lớn nhưng về sau số lương đó có thể trở thành rất nhỏ, không có giá trị như trước.

Điều khoản trong Hiến pháp nói về số lương bổng của các vị thẩm phán quả là đã biểu lộ một tính chất thận trọng và thiết thực. Chúng ta có thể tin chắc rằng điều khoản này và điều khoản nói về nhiệm kỳ vĩnh viễn của các vị thẩm phán là hai điều khoản rất thuận tiện cho tính chất độc lập của ngành tư pháp, rõ ràng hơn các điều khoản của Hiến pháp các tiểu bang khi quy định chức vụ thẩm phán tiểu bang.

Về những điều đề phòng để làm cho các vị thẩm phán luôn luôn có một tinh thần trách nhiệm thì những điều đó đã được gồm trong điều khoản liên quan tới sự lạm dụng công quyền của các nhân viên chính quyền. Các vị thẩm phán có thể bị Hạ Nghị viện tố cáo lạm dụng công quyền và sẽ do Thượng Nghị viện xét xử. Nếu bị kết án, các vị thẩm phán sẽ bị cách chức và sẽ không có quyền giữ một chức vụ nào khác.

HAMILTON

Không một ai trong chúng ta có thể chối cãi được rằng thẩm quyền của ngành tư pháp liên bang cần phải có một phạm vi hiệu lực bao gồm tất cả những trường hợp như sau: Thứ nhất, những trường hợp liên quan tới phạm vi hiệu lực của những đạo luật của liên bang Hợp chúng quốc mà đã được ban hành theo đúng tinh thần công lý và Hiến pháp bởi quốc hội lập pháp của liên bang; Thứ hai, những trường hợp liên quan tới sự thi hành những điều khoản trong Hiến pháp liên bang; Thứ ba, những trường hợp liên quan tới những vụ tranh chấp mà liên bang Hợp chúng quốc là một trong hai thành phần tranh chấp; Thứ tư, những trường hợp liên quan tới nền hòa bình của liên bang, dù liên quan tới sự bang giao giữa Hợp chúng quốc và ngoại quốc hoặc liên quan tới sự liên lạc giữa các tiểu bang trong Hiệp Chủng Quốc; Thứ năm, những trường hợp liên quan tới lĩnh vực các biển cả và thuộc thẩm quyền của luật pháp hàng hải hoặc hải quân; và cuối cùng, những trường hợp mà các tòa án tiểu bang không có đầy đủ một tính chất không thiên vị và hoàn toàn trung lập để có thể xét xử.

Điểm thứ nhất rất rõ ràng nếu chúng ta công nhận rằng cần phải có một phương sách để thi hành những điều khoản mà Hiến pháp đã quy định. Chẳng hạn, về điều khoản hạn chế quyền lực của các tiểu bang, nếu không có một phương sách để thi hành sự hạn chế đó thì điều khoản hạn chế đó có giá trị gì hay không ? Theo dự thảo Hiến pháp, các tiểu bang không có quyền làm nhiều điều, hoặc vì những điều đó trái ngược với quyền lợi của toàn quốc, hoặc vì những điều đó trái ngược với nguyên tắc một chính phủ chân chính. Chẳng hạn, các tiểu bang không có quyền thu thuế về các hàng hóa nhập cảng hoặc in tiền giấy. Cố nhiên là không ai tin tưởng chắc chắn rằng các tiểu bang sẽ tuân theo những sự cấm đoán ràng buộc đó nếu chính phủ liên bang không có một phương sách để thi hành những sự cam đoan đó. Có hai cách để thi hành sự cấm đoán đó. Một là nói rõ các tiểu bang không có quyền làm một điều gì đó. Hai là nói rõ các tòa án liên bang có quyền xét xử những hành động của tiểu bang vi phạm tới luật pháp liên bang. Ngoài hai cách trên, tôi không còn thấy một cách nào khác nữa. Hội nghị Lập hiến đã tỏ ra chuộng cách thứ hai và tôi cũng tin là cách thứ hai tiện lợi cho các tiểu bang hơn.

Về điểm thứ hai, có lẽ không cần giảng giải dài dòng mà ai cũng đều đã hiểu rõ. Vì phạm vi quyền lực của ngành tư pháp ngang với phạm vi quyền lực của ngành lập pháp cho nên cần phải có một sự đồng nhất toàn quốc trong sự định nghĩa các đạo luật của liên bang. Nếu cùng một đạo luật mà tòa án của mỗi tiểu bang trong 13 tiểu bang lại định nghĩa khác nhau, tức là có tới 13 tòa án khác nhau cùng quyết định về ý nghĩa của một đạo luật, thì các quyết định sẽ trái ngược với nhau và không sao tránh được sự hỗn độn.

Điểm thứ ba lại càng ít cần giảng giải hơn nữa. Khi có một cuộc tranh chấp giữa một bên là quốc gia và một bên là một tiểu bang của quốc gia hoặc một công dân của quốc gia, thì sự tranh chấp đó chỉ có thể xét xử do một tòa án liên bang mà thôi. Bất cứ một giải pháp nào khác giải pháp trên cũng đều trái ngược với lẽ phải, với công thức từ xưa tới nay vậy.

Điềm thứ tư căn bản trên nhận xét sau đây: nền hòa bình của toàn quốc là trách nhiệm của toàn quốc chứ không thể là trách nhiệm của một thành phần của quốc gia. Chính phủ liên bang phải có trách nhiệm đứng trước ngoại quốc về hành vi của mọi thành phần của liên bang. Trách nhiệm về một lỗi lầm chỉ có thể đảm nhiệm được khi đồng thời cơ quan đảm nhiệm có phương tiện để ngăn ngừa lỗi lầm đó. Vì vậy cho nên các tòa án liên bang cần phải có thẩm quyền xét xử về tất cả các vụ tranh chấp liên quan tới công dân của ngoại quốc. Người ta có thể chủ trương phân chia ranh giới giữa những vụ liên quan tới các hiệp ước hoặc luật pháp quốc tế và những vụ chỉ liên quan tới luật pháp địa phương. Những vụ trước sẽ thuộc thẩm quyền của luật pháp liên bang, còn những vụ sau sẽ thuộc thẩm quyền của luật pháp tiểu bang. Nhưng những người chủ trương như vậy đã quên rằng nếu một tòa án địa phương mà kết tội một cách thiếu công lý một công dân ngoại quốc thì sự kết tội đó có thể xâm phạm tới những điều khoản hiệp ước giữa hai nước hoặc những điều khoản trong luật pháp quốc tế. Phần lớn những vụ tranh chấp liên quan tới một công dân ngoại quốc đều có ảnh hưởng tới toàn quốc, cho nên những vụ tranh chấp đó cần phải giao phó cho các tòa án liên bang chứ không phải cho các tòa án tiểu bang.

Quyền quyết định về những vụ tranh chấp giữa hai tiểu bang hoặc giữa một tiểu bang và công dân của một tiểu bang khác, hoặc giữa công dân của nhiều tiểu bang khác nhau là một quyền cần thiết không kém cho nền hòa bình chung của toàn quốc.

Lịch sử đã cho ta thấy một cảnh tượng vô cùng khủng khiếp về những sự tranh chấp và những cuộc chiến tranh đã tàn phá nước Đức trước khi hoàng đế Maximilien thành lập một Hội đồng vào khoảng cuối thế kỷ thứ XV để xét xử những vụ tranh chấp giữa các địa phương và đem lại nền hòa bình cho toàn quốc. Hội đồng đó là một hội đồng tối cao có thẩm quyền phân định về những mâu thuẩn giữa các tiểu bang trong đế quốc Đức.

Chỉ có thẩm quyền của chính phủ liên bang mới có thể chấm dứt những vụ tranh chấp về đất đai giữa các tiểu bang. Những vụ tranh chấp về đất đai có thể do rất nhiều nguyên nhân, kể cả nguyên nhân định đoạt ranh giới của các tiểu bang, và những cuộc tranh chấp đó có thể đưa tới việc thù oán, gây hấn giữa các tiểu bang. Chúng ta đã từng được chứng kiến nhiều vụ tranh chấp như vậy từ trước tới nay. Tuy dự thảo Hiến pháp quy định những thủ tục đề phòng để cho những vụ tranh chấp như vậy sẽ không xảy ra nữa nhưng những nguyên nhân sinh ra những cuộc tranh chấp đó vẫn có thể tồn tại và tái hiện một cách bất ngờ. Vì vậy, nhiệm vụ dung hòa giữa các tiểu bang và ngăn ngừa tất cả những điều gì có thể đem lại sự bất hòa giữa các tiểu bang cần phải là một nhiệm vụ thuộc thẩm quyền quản trị và kiểm soát của chính quyền liên bang.

Một trong những nguyên tắc căn bản để thành lập Liên bang Hiệp Chủng Quốc là “công dân của mỗi tiểu bang có quyền hưởng tất cả những đặc quyền của công dân của tất cả các tiểu bang khác”. Và nếu chúng ta lại công nhận nguyên tắc “là bất cứ một chính phủ nào cũng phải có những phương tiện để thi hành những quyết định thuộc thẩm quyền của mình” thì chúng ta phải kết luận một cách hợp lý là, để duy trì sự bình đẳng của công dân toàn quốc trong việc hưởng những quyền tự do và những đặc quyền, cần phải giao phó cho ngành tư pháp của liên bang thẩm quyền phán định những vụ tranh chấp giữa một tiểu bang hoặc công dân của một tiểu bang khác. Vì những tòa án liên bang không có cảm tình riêng biệt với mỗi địa phương nên có thể có được một thái độ trung lập, không thiên vị đối với bất cứ một tiểu bang nào hoặc công dân của một tiểu bang nào. Hơn nữa, vì tòa án liên bang được thành lập là nhờ ở liên bang toàn quốc cho nên tòa án liên bang không thể có những thành kiến trái ngược với những nguyên tắc căn bản cho sự thành lập của liên bang.

Điểm thứ năm cũng rất rõ ràng và không cần giải thích dài dòng. Chỉ có những người quá khích chủ trương tiểu bang có toàn quyền mới phủ nhận thẩm quyền của các tòa án liên bang trong các vụ liên quan tới các vấn đề hàng hải. Những vụ này phần lớn đều liên quan tới thẩm quyền của pháp luật quốc tế và đụng chạm tới quyền lợi của ngoại quốc, cho nên những vụ này phải coi như những vụ liên quan tới nền hòa bình chung. Vì vậy, dự thảo Hiến pháp giao phó quyền xét xử những vụ này cho các tòa án liên bang.

Trong trường hợp mà người ta nghi ngờ là các tòa án tiểu bang không thể có được một thái độ hoàn toàn không thiên vị, thì cố nhiên là thẩm quyền phải giao phó cho các tòa án liên bang. Điều đó rất rõ ràng và có lý. Như chúng ta đã từng nhận xét, không có người nào lại có quyền vừa làm quan tòa lại vừa là một người dính líu trong một vụ tranh chấp hay có một quyền lợi trong vụ tranh chấp đó. Đó là nguyên lắc đã khiến cho Hiến pháp quy định các tòa án liên bang có thẩm quyền xét xử các vụ tranh chấp giữa các tiểu bang. Và cũng có trường hợp tòa án liên bang lại có thẩm quyền xét xử những vụ tranh chấp giữa các công dân cùng thuộc một tiểu bang. Chẳng hạn, trong những vụ tranh chấp về đất đai do nhiều tiểu bang cùng cấp phát cho dân chúng và cùng thuộc tiểu bang của mình. Trong trường hợp này, tòa án của tiểu bang đã cấp phát đất đai sẽ không thể có một thái độ không thiên vị và sẽ đi tới những quyết định có lợi cho tiểu bang của mình. Hơn nữa, các vị thẩm phán của các tòa án tiểu bang dù sao cũng có cảm tình với tiểu bang của mình hơn là đối với tiểu bang khác.

HAMILTON

Những nhận xét trong đoạn này nói về thẩm quyền của ngành tư pháp: phạm vi của ngành này đã được hạn định cẩn thận để chỉ liên quan tới những vụ việc thuộc phạm vi thẩm quyền liên bang; trong việc phân định thẩm quyền, chỉ dành một phần rất nhỏ thẩm quyền phán định cho Toà án Tối cao, còn dành phần lớn thẩm quyền phán định cho các tòa án phụ thuộc; Toà án Tối cao sẽ có thẩm quyền quyết định các vụ kháng cáo nhưng thẩm quyền xét xử kháng cáo này không có nghĩa là hủy bỏ các cuộc xét xử với một bồi thẩm đoàn. Sự thận trọng và tính thanh liêm của các hội đồng quốc gia sẽ duy trì được những điều có lợi cho chúng ta nhờ vào việc sự thành lập ngành tư pháp liên bang và đồng thời sẽ không mang lại cho chúng ta những điều phiền phức mà người ta tiên đoán là ngành tư pháp sẽ mang tới.

Nguồn: Trích từ Ralph H.Gabriel (1954). Hamilton, Madison and Jay: On the Constitution. Đại học Yale, Hoa Kỳ. Được dịch và ấn hành bởi Việt Nam Khảo dịch xã (có trụ sở ở 61 Lê Văn Duyệt, Sài gòn) vào các năm 1959 và 1966 ở miền Nam Việt Nam, dưới tên gọi là “Luận về Hiến pháp Hoa Kỳ”.