Nguồn gốc của chiến tranh
Nhiều người nói rằng vũ khí nguyên tử làm cho chiến tranh trở thành khủng khiếp đến mức buộc người ta phải suy nghĩ. Nhưng tất cả các dân tộc trên thế giới đều cảm thấy hốt hoảng và bất lực trước viễn cảnh là chiến tranh có thể xảy ra.
Tuyệt đối đa số người dân – những người sẽ chết trên chiến trường hay chết đói hoặc chết trong những đống đổ nát – không muốn có chiến tranh. Không bao giờ muốn. Nhưng từ thế kỉ này đến thế kỉ khác chiến tranh vẫn thường xuyên nổ ra, giống như một vệt máu dài song hành với lịch sử loài người vậy.
Người ta sợ chiến tranh có thể xảy ra vì họ biết, một cách hữu thức hay vô thức, rằng họ không bao giờ có thể từ bỏ được cái học thuyết vốn là nguyên nhân của các cuộc chiến tranh trong quá khứ và có thể là nguyên nhân của những cuộc chiến tranh trong hiện tại và tương lai – đấy là học thuyết nói rằng sử dụng vũ lực (dùng vũ lực chống lại những người khác) để đạt mục đích là chấp nhận được hay là biện pháp thực tiễn hoặc cần thiết nữa và có thể được biện hộ nếu đấy là mục đích “tốt”. Học thuyết này cho rằng vũ lực là một thành tố hợp pháp hoặc không thể tránh được của cuộc sống của con người và xã hội loải người.
Hãy xem một trong những đặc điểm xấu xa nhất của thế giới hôm nay: sự chuẩn bị chiến tranh điên cuồng nhất đi liền với sự tuyên truyền cho hoà bình cũng điên cuồng không kém. Và cả hai hiện tượng này đều xuất phát từ cùng một nguồn gốc – từ cùng một triết lí chính trị. Mặc dù đã bị phá sản, cái triết lí chính trị gọi là chủ nghĩa quốc gia vẫn giữ thế thượng phong trong thời đại chúng ta.
Xin xem xét bản chất của cái gọi phong trào gọi là hoà bình hiện nay. Tự nhận là nhân bản và lo lắng cho sự tồn vong của nhân loại, phong trào này kêu gào chấm dứt chạy đua vũ trang hạt nhân, từ bỏ vũ khí như là phương tiện giải quyết bất đồng giữa các quốc gia và đưa chiến tranh ra ngoài vòng pháp luật. Nhưng những phong trào hoà bình này lại không chống lại các chế độ độc tài, còn quan điểm chính trị của các thành viên của nó thì muôn màu muôn vẻ, từ nhà nước phúc lợi đến chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản. Điều đó có nghĩa là họ chống lại việc dân tộc này sử dụng vũ lực chống lại dân tộc khác chứ không chống lại việc chính phủ của một nước sử dụng vụ lực nhằm chống lại các công dân của chính nó; điều đó cũng có nghĩa là họ chống lại việc sử dụng vũ lực nhằm chống lại kẻ thù có vũ trang, nhưng không chống lại việc sử dụng vũ lực nhằm chống lại những người tay không tấc sắt.
Các chế độ độc tài đã cướp bóc, phá hoại, gây ra nạn đói, tình cảnh dã man, trại lao động khổ sai, phòng tra tấn, giết người hàng loạt. Đấy chính là cái mà những người tự nhận là yêu hoà bình hiện nay sẵn sàng biện hộ hoặc chịu đựng – nhân danh tình yêu nhân loại.
Rõ ràng là cội nguồn tư tưởng của chủ nghĩa quốc gia (hay chủ nghĩa tập thể) là quan niệm bầy đàn của những người nguyên thuỷ, những kẻ không thể nhận thức được các quyền của cá nhân con người, những kẻ tin rằng bộ lạc là tối thượng, bộ lạc là kẻ nắm quyền toàn trí toàn năng, có quyền sinh quyền sát đối với các thành viên của nó và có thể hi sinh các thành viên bất cứ khi nào và cho bất cứ thứ gì mà nó cho là “tốt”. Không nhận thức được bất kì nguyên tắc xã hội nào, ngoại trừ nguyên tắc vũ lực bạo tàn, những người như thế tin rằng bộ lạc có thể ước muốn bất cứ thứ gì, miễn là có đủ sức và các bộ lạc khác chỉ là những con mồi, phải bị chinh phục, cướp bóc, bắt làm nô lệ hoặc xoá sổ hoàn toàn. Lịch sử của các dân tộc bán khai chính là một loạt những cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc và tàn sát lẫn nhau. Sự kiện là cái hệ tư tưởng nguyên thuỷ đó vẫn còn điều khiển các quốc gia được trang bị vũ khí hạt nhân phải làm cho bất cứ ai quan tâm tới sự sống còn của nhân loại để tâm suy nghĩ.
Chủ nghĩa quốc gia là bạo lực đã được định chế hoá và cuộc nội chiến không bao giờ dứt. Nó không cho người ta bất cứ lựa chọn nào ngoài việc chiến đấu để giành quyền lực – tức là cướp hay là bị cướp, giết hay là bị giết. Khi vũ lực bạo tàn trở thành thước đo duy nhất đối với các hành vi của xã hội và không kháng cự nghĩa là chết thì ngay một hèn kém nhất, ngay cả con vật, thậm chí con chuột cũng sẽ chiến đấu. Một dân tộc bị nô dịch thì không thể có hoà bình được.
Nội chiến, tức là chiến tranh huynh đệ tương tàn giữa những người không thể tìm được luật pháp và công lí bằng con đường hoà bình, chứ không phải chiến tranh giữa các dân tộc mới là những cuộc đụng độ đẫm máu nhất trong lịch sử. Lịch sử của các nhà nước chuyên chế thường bị gián đoạn bởi những cuộc nổi dậy đẫm máu – những vụ bùng nổ của nỗi tuyệt vọng mù quáng, không cần hệ tư tưởng. không cần cương lĩnh hay kế hoạch nào hết – những vụ bạo loạn thường bị đàn áp bằng những vụ hành quyết dã man những kẻ phản loạn.
Trong chế độ chuyên chế tuyệt đối, cuộc “chiến tranh lạnh” do chủ nghĩa quốc gia sinh ra thường diễn ra dưới hình thức những cuộc thanh trừng đẫm máu, đấy là khi băng đảng này lật được băng đảng kia, như đã từng xảy ra ở nước Đức quốc xã hay ở Liên Xô. Trong nền kinh tế hỗn hợp, cuộc chiến tranh này diễn ra dưới hình thức cuộc chiến đấu giữa các nhóm lợi ích, mỗi nhóm đều chiến đấu cho việc thông qua những đạo luật có lợi cho họ và tước đoạt lợi ích của các nhóm khác.
Đất nước càng chia thành các nhóm đối địch nhau và làm cho người nọ chống báng người kia thì tinh thần quốc gia trong hệ thống chính trị của nước đó càng cao. Khi quyền cá nhân không còn thì cũng không thể nào xác định ai được làm gì, không thể nào xác định được đòi hỏi, ước mong hay quyền lợi của một người nào đó là đúng hay không. Lúc đó sẽ phải trở về với tiêu chuẩn của bộ lạc: anh có thể ước muốn bất cứ thứ gì, miễn là băng nhóm của anh có đủ sức. Muốn sống sót trong một hệ thống như thế người ta buộc phải sợ hãi, căm thù và giết hại lẫn nhau; đấy là hệ thống của những mưu đồ, những âm mưu bí mật, những vụ thông đồng, bao che, phản bội và đảo chính đẫm máu. Hệ thống này không đưa người ta đến tình huynh đệ, sự an toàn, thái độ hợp tác và hoà bình.
Chủ nghĩa quốc gia – cả trên nguyên tắc lẫn thực tế – chỉ là quyền lực của băng đảng. Chế độ độc tài chính là băng đảng được quyền cướp đoạt thành quả lao động của các công dân của chính đất nước mình. Sau khi đã làm khánh kiệt nền kinh tế của đất nước, kẻ cầm quyền có tinh thần quốc gia sẽ tấn công các nước láng giềng. Đấy là cách duy nhất giúp hắn trì hoãn vụ sụp đổ và kéo dài quyền lực của chính hắn. Một đất nước giày xéo lên quyền của các công dân nước mình thì cũng sẽ không tôn trọng quyền của các nước khác. Những kẻ không tôn trọng quyền của cá nhân con người thì cũng sẽ không công nhận quyền của các quốc gia khác: quốc gia là do nhiều cá nhân mà thành.
Chủ nghĩa quốc gia cần chiến tranh, còn đất nước tự do thì không. Chủ nghĩa quốc gia sống nhờ cướp bóc, đất nước tự do sống nhờ sản xuất.
Tất cả những cuộc chiến tranh lớn trong lịch sử đều là do các nước có nền kinh tế bị kiểm soát chặt chẽ hơn phát động nhằm chống lại những nước tự do hơn. Thí dụ Chiến tranh Thế giới I do nước Đức quân chủ và nước Nga Sa hoàng phát động, hai nước này đã lôi kéo các đồng minh tự do hơn của mình vào cuộc chiến. Chiến tranh Thế giới II là do liên minh Xô-Đức và cuộc tấn công phối hợp của họ vào nước Ba Lan gây ra.
Chúng ta thấy rằng trong Chiến tranh Thế giới II cả Đức và Liên Xô đều chiếm và tháo dỡ các nhà máy tại các nước mà họ chiếm được và chở về nhà, trong khi nước có nền kinh tế hỗn hợp tự do nhất là Mĩ, tức là nước nửa tư bản chủ nghĩa, thì chuyển thiết bị trị giá hàng tỉ dollar, trong đó có cả những nhà máy hoàn chỉnh, cho các nước đồng minh. (Xin đọc: Keller W. East Minus West = Zero. N.Y.: G.P. Putnam’s Sons, 1962 để biết toàn bộ câu chuyện về sự cướp bóc của Liên Xô.)
Nước Đức và nước Nga cần chiến tranh, còn Mĩ thì không và cũng chẳng được lợi lộc gì. (Thực ra Mĩ đã thua về mặt kinh tế mặc dù đã giành thắng lợi trong cuộc chiến: chiến tranh đã để lại món nợ khổng lồ cho nhà nước, nợ lại càng gia tăng vì chính sách giúp đỡ các nước đồng minh và kẻ thù cũ mà chẳng mang lại lợi ích gì). Thế mà ngày hôm nay những người yêu chuộng hoà bình lại chống báng chủ nghĩa tư bản và ủng hộ chủ nghĩa quốc gia.
Chủ nghĩa tư bản laissez-faire là hệ thống xã hội duy nhất đặt căn bản trên nguyên tắc công nhận quyền cá nhân và vì vậy mà là hệ thống duy nhất loại bỏ vũ lực ra khỏi các mối quan hệ xã hội. Đây là hệ thống duy nhất chống lại chiến tranh, nếu xét về bản chất các nguyên tắc và quyền lợi căn bản của nó.
Tất cả những người được tự do sản xuất đều không có động cơ cướp bóc, chiến tranh chỉ làm cho họ thua thiệt chứ chẳng mang lại lợi lộc gì. Về mặt ý thức hệ, nguyên tắc tôn trọng quyền con người không cho phép người ta dùng vũ khí làm kế sinh nhai, cả ở trong cũng như ngoài nước. Vế mặt kinh tế, chiến tranh rất tốn kém: trong nền kinh tế tự do, nơi mà tài sản là sở hữu tư nhân, chiến phí sẽ phải lấy từ thu nhập của các công dân – không thể bơm ngân quĩ lên mà che đậy được – các công dân cũng không hi vọng chiến thắng sẽ bù đắp được thiệt hại về mặt tài chính (thuế khoá, sản xuất gián đoạn và tài sản bị phá huỷ). Như vậy là, quyền lợi kinh tế làm cho người công dân đứng về phía hoà bình.
Trong nền kinh tế nhà nước, nơi tài sản là “của công”, người công dân không có nhu cầu bảo vệ hoà bình về mặt kinh tế – anh ta chỉ là một giọt nước trong biển cả mà thôi – trong khi chiến tranh cho anh ta hi vọng (giả tạo) là sẽ được chủ cho thêm. Về mặt ý thức hệ, anh ta được dạy phải coi người là những con vật dùng để hiến tế, anh ta cũng là một trong số những người như thế: anh ta không hiểu được vì sao lại không được giết người nước ngoài trên chính cái bệ thờ nhân danh lợi ích của chính nhà nước.
Trong suốt chiều dài của lịch sử, nhà buôn và chiến binh vẫn là kẻ thù không đội trời chung với nhau. Thương mại không thể phát triển trên bãi chiến trường, nhà máy không thể sản xuất dưới trận mưa bom, lợi nhuận không thể sinh ra trên đống gạch vụn. Chủ nghĩa tư bản là xã hội của các thương nhân – vì vậy mà những kẻ sẵn sàng cướp bóc bao giờ cũng coi thương mại là “ích kỉ”, còn chinh phục là “cao thượng”.
Tất cả những người quan tâm đến hoà bình cần phải thấy rằng chủ nghĩa tư bản đã tạo ra cho nhân loại giai đoạn hoà bình dài nhất trong lịch sử – một giai đoạn không có những cuộc chiến tranh bao trùm lên toàn bộ thế giới văn minh – đấy là giai đoạn từ sau những cuộc chiến tranh của Napoleon vào năm 1815 cho đến khi nổ ra Chiến tranh Thế giới I vào năm 1914.
Nên nhớ rằng hệ thống chính trị thế kỉ XIX không phải là chủ nghĩa tư bản thuần tuý mà là nền kinh tế hỗn hợp. Nhưng dù sao thành phần tự do cũng là yếu tố chủ đạo, chưa bao giờ loài người tiến gần đến “thời đại tư bản chủ nghĩa” đến như thế. Nhưng thành tố quốc gia chủ nghĩa vẫn tiếp tục phát triển trong suốt thế kỉ XIX và đến năm 1914, tức là khi nó làm thế giới nổ tung, phần lớn chính sách của các chính phủ đã mang màu sắc quốc gia là chính.
Nếu như trong lĩnh vực đối nội, tất cả những điều xấu xa do chủ nghĩa quốc gia và sự kiểm soát của chính phủ gây ra đều được gán cho chủ nghĩa tư bản và thị trường tự do thì trong lĩnh vực đối ngoại, tất cả những điều xấu xa do chính sách mang màu sắc quốc gia chủ nghĩa gây ra đều được gán cho chủ nghĩa tư bản. Những huyền thoại như là “chủ nghĩa đế quốc tư bản”, “trục lợi bằng chiến tranh” hay quan niệm cho rằng chủ nghĩa tư bản giành được thị trường bằng những cuộc chinh phục vũ trang là những thí dụ về sự thiển cận hoặc thiếu thận trọng của các nhà bình luận và các nhà sử học theo trường phái quốc gia chủ nghĩa.
Bản chất của chính sách đối ngoại của chủ nghĩa tư bản là thương mại tự do – nghĩa là bãi bỏ tất cả các rào cản thương mại, bãi bỏ thuế khoá mang tính bảo hộ, bãi bỏ đặc quyền đặc lợi – mở những con đường giao thương trên khắp hành tinh cho việc trao đổi tự do trên bình diện quốc tế và cạnh tranh giữa các công dân của tất cả các nước buôn bán trực tiếp với nhau. Trong thế kỉ XIX, chính tự do thương mại đã giải phóng thế giới khỏi những tàn dư của chủ nghĩa phong kiến và chế độ chuyên chế của các chế độ quân chủ.
“Thế giới chấp nhận đế quốc Anh, cũng như trước đây từng chấp nhận đế chế Rome, vì nó hướng năng lượng của con người vào lĩnh vực tương mại. Mặc dù việc cai trị hà khắc, với những kết quả khủng khiếp, vẫn còn được áp đặt đối với Ireland, nhưng nói chung luật pháp và tự do thương mại là những món hàng xuất khẩu “vô hình” đã xâm nhập vào nước này. Trên thực tế, khi nước Anh còn làm chủ các đại dương, bất kì người nào thuộc bất kì dân tộc nào đều có thể mang hàng và tiền một cách an toàn đến bất kì đâu”. (Isabel Paterson, The God of the Machine, Caldwell, Idaho: Caxton Printers, 1964, p. 121. Xuất bản lần thứ nhất năm 1943.)
Cũng như Rome, khi thành tố áp bức của nước Anh với nền kinh tế hỗn hợp phát triển đến mức trở thành chính sách giữ thế thượng phong và trở thành chủ nghĩa quốc gia thì đế chế tan rã. Không phải lực lượng vũ trang đã làm cho đế chế trở thành thực thể gắn bó với nhau.
Nhờ cạnh tranh mà chủ nghĩa tư bản giành và giữ được thị trường, cả trong cũng như ngoài nước. Thị trường giành được bằng chiến tranh chỉ có giá trị (tạm thời) đối với những người ủng hộ nền kinh tế hỗn hợp, tức là những người tìm cách bế quan toả cảng, không cho cạnh tranh quốc tế, áp đặt các biện pháp hạn chế và như vậy cũng chính là giành đặc quyền đặc lợi bằng vũ lực. Chính những doanh nhân nhờ bàn tay của chính phủ để tìm những khoản ưu tiên ưu đãi ở trong nước cũng lại là những kẻ dùng bàn tay của chính phủ để tìm những thị trường đặc biệt ở nước ngoài. Ai phải trả giá? Đa số các doanh nhân, những người đóng thuế cho những vụ phiêu lưu nhưng chẳng được gì, sẽ phải trả giá. Kẻ nào biện hộ và quảng bá những chính sách như thế ra xã hội? Đấy là những người trí thức có tinh thần quốc gia chủ nghĩa, họ chính là những người sáng tác ra các học thuyết gọi là “quyền lợi của xã hội” hay “uy tín quốc gia”, hoặc “sứ mệnh đặc biệt”.
Trong tất cả các nền kinh tế hỗn hợp, những kẻ nhờ chiến tranh mà được lợi là: những người có thế lực chính trị, họ kiếm được tài sản nhờ sự ưu đãi của chính phủ cả trong và sau chiến tranh – họ không thể nào kiếm được số tài sản như thế trên thị trường tự do.
Xin nhớ rằng các công dân – nghèo hay giàu, chủ doanh nghiệp hay công nhân thì cũng thế – không có quyền phát động chiến tranh. Đấy là đặc quyền của chính phủ. Chính phủ loại nào có nhiều khả năng đẩy đất nước vào cuộc chiến hơn: chính phủ với những quyền lực hạn chế được qui định trong khuôn khổ của hiến pháp – hay chính phủ có quyền lực vô hạn, dễ dàng bị những nhóm có tư tưởng hiếu chiến hoặc những nhóm sẽ giàu lên nhờ chiến tranh gây áp lực, chính phủ có thể buộc quân đội lên đường theo ý thích nhất thời của một người đứng đầu duy nhất?
Nhưng những người yêu chuộng hoà bình hiện nay lại không ủng hộ chính phủ hạn chế. (Không cần phải nói rằng chủ nghĩa hoà bình đơn phương cũng chẳng khác gì mời gọi bọn xâm lược. Nếu như mỗi người đều có quyền tự vệ thì đất nước tự do cũng có quyền đó nếu bị tấn công. Nhưng điều đó cũng không cho phép chính phủ quyền buộc toàn dân phải thi hành luật nghĩa vụ quân sự – đấy chính là sự vi phạm trắng trợn quyền của con người được tự ý định đoạt đời sống của mình. Không có gì mâu thuẫn giữa đức hạnh và thực tiễn ở đây hết: quân đội tình nguyện là đội quân hữu hiện nhất, nhiều chuyên gia quân sự có uy tín đã nói như thế. Đất nước tự do không bao giờ thiếu người tình nguyện một khi bị tấn công. Nhưng chẳng mấy người tình nguyên tham gia những vụ phiêu lưu như chiến tranh ở Triều Tiên hay Việt Nam. Không có lực lượng quân dịch, chính sách đối ngoại của những người theo phái quốc gia hay những nền kinh tế hỗn hợp sẽ trở thành bất khả thi.)
Khi đất nước vẫn còn tự do, thậm chí nửa tự do, thì những người được hưởng lợi từ nền kinh tế hỗn hợp sẽ không phải là nguồn gốc của chính sách kích động chiến tranh và cũng không phải là nguyên nhân đầu tiên đẩy đất nước vào vòng chiến. Họ chỉ là những con kền kền chính trị kiếm chác được trong xu hướng chung của xã hội mà thôi. Những nhà trí thức ủng hộ cho nền kinh tế hỗn hợp chính là những người tạo ra xu hướng đó.
Xin xem xét mối liên hệ giữa chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa quân phiệt trong lịch sử tư tưởng thế kỉ XIX và XX. Cũng như việc phá huỷ chủ nghĩa tư bản và sự ngóc đầu dậy của nhà nước toàn trị không phải là do các doanh nhân hay giới lao động hoặc bất kì quyền lợi kinh tế nào khác mà là do hệ tư tưởng quốc gia đang giữ thế thượng phong của những người trí thức gây ra – việc hồi sinh học thuyết biện hộ cho việc chinh phục và những cuộc “thập tự chinh” bằng vũ lực nhân danh các “lí tưởng” chính trị cũng là sản phẩm của những người trí thức, những người tin rằng có thể đạt được điều “tốt” bằng vũ lực.
Sự ngóc đầu dậy của tinh thần đế quốc dân tộc chủ nghĩa ở Mĩ không xuất phát từ cánh hữu mà xuất phát từ cánh tả, không xuất phát từ quyền lợi của những doanh nghiệp lớn mà xuất phát từ những nhà cải cách theo xu hướng chủ nghĩa tập thể, những người có ảnh hưởng đối với chính sách của các tổng Theodore Roosevelt và Woodrow Wilson. (Những ai muốn tìm hiểu lịch sử của những ảnh hưởng như thế xin đọc: Arthur A. Ekirch, Jr. The Decline of American Liberalism, New York: Longmans, Green, 1955.)
Giáo sư Ekirch viết: “Khi những người cấp tiến càng tích cực ủng hộ chế độ quân dịch bắt buộc và quan niệm “nghĩa vụ của người da trắng” thì đấy rõ ràng là biểu hiện của chế độ gia trưởng, tương tự như những đạo luật về cải cách kinh tế của họ. Chủ nghĩa đế quốc, theo một nghiên cứu gần đây về chính sách đối ngoại của Mĩ, chính là cuộc nổi dậy chống lại chủ nghĩa tự do. Tinh thần của chủ nghĩa đế quốc đưa nghĩa vụ lên trên quyền lợi, đưa lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân, đặt những giá trị anh hùng lên trên vật chất, đặt hành động cao hơn tư duy, đặt các xung động tự nhiên lên trên trí tuệ trần trụi” (Tác phẩm đã dẫn, trang 189. Trích lại từ: R. E. Osgood, Ideals and Self-Interest in America’s Foreign Relations, Chicago: University of Chicago Press, 1953, trang 47.)
Giáo sư Ekirch viết về Woodrow Wilson như sau: “Wilson chắc chắn muốn nền ngoại thương của Mĩ phát triển như là kết quả của sự cạnh tranh tự do trên bình diện quốc tế, nhưng do những tư tưởng về đạo lí và trách nhiệm, ông dễ dàng thực hiện những biện pháp can thiệp trực tiếp của Mĩ và coi đấy là phương tiện bảo vệ quyền lợi quốc gia (sách đã dẫn, trang 199). Và: “Có vẻ như ông cảm thấy rằng nước Mĩ có sứ mệnh truyền bá những định chế của nó – mà ông cho là dân chủ và tự do – tới những khu vực còn tăm tối hơn trên thế giới (như trên). Không phải những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản đã giúp Wilson đẩy một dân tộc yêu chuộng hoà bình vào cơn cuồng loạn “thập tự chinh” bằng quân sự mà chính là tờ tạp chí theo đường lối “tự do” The New Republic đã làm việc đó. Biên tập viên tờ tạp chí này, ông Herbert Croly, nói như sau: “Dân tộc Mĩ cần một vụ phiêu lưu mang tính đạo đức sâu sắc, đấy chính là liều thuốc bổ”.
Trong khi Wilson, một nhà cải cách “theo đường lối tự do” đấy nước Mĩ vào Chiến tranh Thế giới I nhằm “làm bảo vệ nền dân chủ trên thế giới” thì Franklin D. Roosevelt, một nhà cải cách “theo đường lối tự do” khác nhân danh “bốn quyền tự do” đã đẩy nước Mĩ vào Chiến tranh Thế giới II. Thế mà trong cả hai trường hợp, tuyệt đại đa số những người “bảo thủ” và đại diện cho các doanh nghiệp lớn đều chống lại chiến tranh, nhưng họ đã bị bịt miệng. Trong trường hợp Chiến tranh Thế giới II họ đã bị bôi nhọ bằng những từ ngữ như: “những kẻ theo chủ nghĩa biệt lập”, “bọn phản động”, “nước Mĩ trên hết”..v.v..
Chiến tranh Thế giới I không dẫn tới dân chủ mà lại tạo ra ba chế độ độc tài, đấy là nước Nga Xô-viết, nước Ý phát xít và nước Đức Quốc xã. Chiến tranh Thế giới II không dẫn tới “bốn quyền tự do” mà lại đưa một phần ba nhân loại vào vòng nô lệ cộng sản.
Nếu hoà bình là mục đích của những người trí thức hiện nay thì tưởng như những thất bại trên bình diện rộng lớn như thế và bằng chứng về những đau khổ không nói được nên lời của biết bao nhiêu người như thế sẽ buộc họ phải suy nghĩ và đánh giá lại những luận điểm mang tính quốc gia chủ nghĩa của mình. Nhưng họ vẫn là những người đui mù trước tất cả, trong họ chỉ có mỗi lòng hận thù chủ nghĩa tư bản mà thôi, bây giờ họ khẳng định rằng “nghèo đói sinh ra chiến tranh” (và biện hộ cho chiến tranh theo cách đó). Nhưng vấn đề là: cái gì sinh ra nghèo đói? Nếu bạn nhìn vào thế giới ngày hôm nay và nếu bạn nhìn lại lịch sử thì bạn sẽ tìm được câu trả lời: mức độ tự do của một nước chính là mức độ thịnh vượng của nước đó.
Nhiều người hiện nay cũng hay phàn nàn rằng thế giới bị chia thành nước “giàu” và nước “nghèo”. Nhưng xin nhớ rằng nước giàu là nước tự do, còn nước nghèo là nước không có tự do.
Người nào muốn chống chiến tranh thì phải chống chủ nghĩa quốc gia trước đã. Khi người ta vẫn giữ trong đầu quan niệm có từ thời ăn lông ở lỗ rằng cá nhân chỉ là “bia đỡ đạn” cho tập thể, rằng một số người có thể dùng vũ lực để cai trị những người khác, và rằng một số điều (bất kì điều gì) có thể biện hộ cho việc cai trị như thế thì khi đó trong nước vẫn không có hoà bình và giữa các dân tộc cũng không thể có hoà bình.
Đúng là vũ khí nguyên tử làm cho chiến tranh trở thành khủng khiếp đến mức buộc người ta phải suy nghĩ. Nhưng đối với một người thì chết vì bom hạt nhân, hay chết vì bom làm bằng thuốc nổ thông thường hoặc chết vì cú đánh của một cái dùi cui cũng đều là chết cả. Đối với người đó, bao nhiêu người chết và mức độ tàn phá cũng thế mà thôi. Thật là kinh tởm khi thấy những người coi số người chết là điều đáng sợ, trong khi họ sẵn sàng đưa một số thanh niên vào chỗ chết vì bộ lạc của họ, nhưng lại la toáng lên khi cả bộ lạc có thể bị diệt vong. Hơn nữa: họ tỏ sẵn sàng tha thứ cho việc giết hại hàng loạt những người tay không tấc sắt nhưng lại đứng lên phản đối chống chiến tranh giữa các quốc gia được trang bị đến tận răng.
Khi người dân còn bị nô dịch bằng vũ lực thì họ còn chống cự và sẽ sử dụng tất cả các loại vũ khí mà họ có trong tay. Khi người ta bị bọn Quốc xã đưa vào lò hơi ngạt hay bị những người cộng sản đem ra trường bắn mà không thấy ai lên tiếng bảo vệ thì người ta có còn yêu nhân loại hay còn quan tâm đến sự tồn vong của nhân loại nữa hay không? Hay người ta sẽ cảm thấy có lí khi nghĩ rằng cái nhận loại đang tự ăn thịt mình như thế, cái nhân loại chấp nhận nền độc tài như thế, chẳng nên sống làm gì?
Nếu vũ khí nguyên tử là mối đe doạ chết người và nhân loại không thể chịu đựng được chiến tranh nữa thì nhân loại cũng không thể chịu được được chủ nghĩa quốc gia nữa. Bất kì người có thiện chí nào cũng không được biện hộ cho việc sử dụng vũ lực – cả trong cũng ngoài nước . Tất cả những ai thực sự quan tâm tới hoà bình – những người yêu nhân loại và lo lắng cho sự sống còn của nó – cần phải thấy rằng đưa chiến tranh ra ngoài vòng pháp luật cũng có nghĩa là đưa việc sử dụng vũ lực ra ngoài vòng pháp luật.
Nguồn: “The Roots of War”, The Freeman. Vol. 16. № 11 (November 1966)
Nguồn bản dịch: https://phamnguyentruong.blogspot.com/2011/04/ayn-rand-nguon-goc-cua-chien-tranh.html