Chủ nghĩa hợp hiến (Phần 3)

Chủ nghĩa hợp hiến (Phần 3)

Công cuộc tranh đấu cho quyền cá nhân

Phần dẫn nhập của Hiến pháp đi tìm một trật tự chính trị mới dựa trên các nguyên tắc sau đây: để thành lập một sự liên minh hoàn thiện hơn, để tạo ra một hệ thống phòng vệ chung, để lập ra một chế độ công bằng, và để đảm bảo những niềm hạnh phúc tự do cho các thế hệ hiện tại và mai sau. Ngay cả trước đó, bản Tuyên ngôn Độc lập đã nói tới các “quyền bất khả xâm phạm” cố hữu trong bản chất của con người mà không một chính quyền nào có thể tước bỏ. Vào thời đó, mà ngay cả cho tới bây giờ, đã diễn ra những cuộc bất đồng ý kiến gay gắt giữa các phe phái về vấn đề làm thế nào để đảm bảo những niềm hạnh phúc tự do đó. Khi mới được soạn thảo và đưa ra các tiểu bang để phê chuẩn, Hiến pháp không nói gì tới quyền tự do cá nhân. Một cách giải thích cho sự khác thường này là bởi các nhà soạn thảo Hiến pháp cho rằng quyền lực của chính quyền quốc gia mới được lập ra đã được giới hạn một cách cẩn thận đến mức không cần phải có thêm các bảo vệ khác cho quyền cá nhân. Hơn nữa, có nhà chủ trương thể chế liên bang lập luận rằng nếu kể rõ thêm các quyền thì cũng có thêm một điều đáng ngại nữa là có những quyền được coi là thiết yếu nhưng nếu không được nêu ra thì có thể bị chính quyền xâm phạm.

Mặc dầu phe chống Liên bang thua trong vòng tranh đấu khi soạn thảo Hiến pháp 1787, nhưng họ cũng đã có thể bắt buộc đối phương phải nhượng bộ. Vì e ngại quyền lực của chính quyền toàn quốc mới (quá mạnh), họ đòi hỏi là phải ghi vào trong Hiến pháp một loạt điều bảo vệ cụ thể cho quyền cá nhân. Tại một số đại hội ở cấp tiểu bang, họ được các lãnh tụ của phe Liên bang hứa là sẽ ủng hộ thông qua những tu chính Hiến pháp thích hợp. Một số tiểu bang còn đe dọa sẽ không phê chuẩn Hiến pháp trừ phi họ được đảm bảo là phải thông qua một đạo luật về quyền. Phe chủ trương Liên bang đã giữ lời hứa. Năm 1789, Quốc hội đầu tiên của Mỹ đã chấp thuận 10 tu chính đầu tiên của Hiến pháp. Tới năm 1791, Bộ luật về quyền, gồm 10 điều tu chính này, đã được đủ số tiểu bang phê chuẩn. Hơn thế nữa, Tu chính số 9 – minh thị bảo vệ các quyền cơ bản không được nêu rõ trong Hiến pháp – cũng khiến cho phe chủ trương Liên bang không còn e ngại là liệt kê những quyền được bảo vệ sẽ làm phương hại tới các quyền khác không được liệt kê ra một cách rõ rệt như vậy.

Bộ luật về quyền cũng giới hạn khả năng chính quyền xâm phạm vào quyền cá nhân, bao gồm cả quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp và tự do tín ngưỡng. Bộ luật này cũng cấm Quốc hội thông qua các luật về việc thiết lập một tôn giáo chính thức, nghĩa là ưu đãi một tôn giáo này hơn một tôn giáo khác. Gần 2/3 số điều khoản trong Bộ luật về quyền là nhằm bảo vệ quyền của những người bị nghi là phạm tội hay bị truy tố vì có hành vi phạm pháp. Các quyền này bao gồm các điều như áp dụng thủ tục đúng theo luật pháp quy định, xử án công bằng, không bị ép buộc phải nhận tội, không phải chịu các hình phạt độc ác hay khác thường hay bị xử hai lần cho cùng một tội. Khi mới được thông qua, Bộ luật về quyền chỉ áp dụng cho các hoạt động thuộc chính quyền liên bang. Kiềm chế khả năng nhà nước xâm phạm quyền tự do của công dân là đề tài của các tu chính án số 13 (1865), 14 (1868) và 15 (1870), được mệnh danh là các Tu chính án kiến thiết (Reconstruction Amendments), được thông qua sau cuộc Nội chiến để giải thể các định chế của chế độ nô lệ.

Trong hơn 100 năm qua, nhiều quyền tự do quy định trong 10 tu chính án đầu tiên đã được bao gồm trong tu chính thứ 14 với điều bảo đảm là không một nhà nước nào có thể không cho công dân được hưởng quyền xét xử theo luật định và quyền được luật pháp bảo vệ. Nhất là từ sau những năm 1920, mười tu chính đầu tiên của Hiến pháp đã giữ một vai trò ngày càng tích cực và ngày càng có ý nghĩa trong việc giải quyết những vấn đề khó khăn trong chính sách công – từ tính chất hợp hiến của việc đọc kinh trong trường học và luật thử ma túy cho tới các vấn đề như kiểm soát sinh đẻ và hình phạt tử hình. Các nguyên tắc cơ bản như “công bằng” hay “tự do” cũng như các phương châm của Hiến pháp như “xét xử theo luật định” và “quyền được luật pháp bảo vệ một cách bình đẳng” đã được các thế hệ kế tiếp cho những ý nghĩa mới. Những phát triển đó, thường đi kèm theo các phong trào phản đối và bất tuân luật pháp của quần chúng, phản ánh những thay đổi trong cảm nhận của con người và của tập tục xã hội Hoa Kỳ trong 200 năm vừa qua.

Sự biện minh có tính chất triết lý cho rằng Bộ luật về quyền đã đặt một số quyền tự do ra ngoài tầm kiểm soát của khối đa số. Điều này căn cứ vào tiền đề là tước bỏ quyền cơ bản của công dân sẽ làm giảm tư cách công dân của họ và thực chất là làm giảm ngay cả tư cách con người của họ. Cái tập hợp lớn gồm các quyền được Bộ luật về quyền và Hiến pháp bảo vệ họp thành kết cấu thiết yếu của một chính quyền tự do. Quyền công dân có thể phát sinh trực tiếp từ quyền tự nhiên hay gián tiếp qua các xếp đặt chính trị trong một xã hội được xây dựng với sự thỏa thuận của dân chúng thể hiện trong Hiến pháp, qua các tiền lệ của thông luật và qua các luật lệ. Sự thành công của Madison và những đồng nghiệp của ông trong Đại hội Hiến pháp (Constitutional Convention) và trong Quốc hội đầu tiên phản ánh quy cách mà các vị đó đã tiến hành để dựng lên các quy trình và cơ cấu có khả năng tự điều chỉnh để thi hành quyền một cách hợp pháp và đưa ra những tiêu chuẩn thực hiện các quyền đó ở nước Mỹ.

Chủ nghĩa hợp hiến, tự do và trật tự thế giới mới

Sự kết thúc của Chiến tranh lạnh cùng với sự sụp đổ của Liên bang Xô viết và các nước phụ thuộc tại Đông Âu đã đưa tới một cảm giác chiến thắng và lạc quan trước triển vọng tốt đẹp của các ý tưởng tự do dân chủ và thể chế cai trị theo hiến pháp. Tháng 12 năm 2000, tổ chức Freedom House (Nhà Tự do), một tổ chức phi lợi nhuận với mục đích phát triển dân chủ trên thế giới, đã phổ biến một tài liệu nghiên cứu quy mô về tình trạng hiện tại về quyền chính trị và quyền tự do của 191 nước trên thế giới. Tập tài liệu nghiên cứu, có tiêu đề là Tự do trên Thế giới năm 2000-2001, cho thấy xu hướng tự do gia tăng từng mức độ nhỏ kéo dài suốt 10 năm vẫn còn tiếp tục trong năm 2000. Theo nghiên cứu hàng năm của tổ chức này, 86 quốc gia gồm 2,5 tỷ (tức 2.500 triệu) người (hay 40,7 % dân số thế giới, tỷ số cao nhất từ khi tổ chức này làm điều tra nghiên cứu) được đánh giá là “có tự do”. Người dân ở những nước này được hưởng một số quyền tự do rộng rãi. Năm mươi chín quốc gia, gồm 1,4 tỷ người (23,8%) được coi là “tự do một phần”. Trong các quốc gia đó quyền chính trị và quyền tự do bị giới hạn hơn. Các quốc gia đó cũng là những nước có các đặc điểm như tham nhũng, đảng cầm quyền có tính chất áp chế và một số nước có xung đột về tôn giáo hay chủng tộc. Cuộc điều tra nghiên cứu cũng cho thấy có 47 quốc gia, gồm 2,2 tỷ người (35,5 %) thuộc loại “không có tự do”. Người dân tại những nước này không có các quyền chính trị và quyền tự do cơ bản.

Cuộc điều tra nghiên cứu của Nhà Tự do củng cố sự tin tưởng rất phổ biến hiện nay rằng không còn có một chế độ nào khác tốt hơn chế độ dân chủ. Chế độ này đã trở thành một tường thành bảo vệ trong thời hiện đại. Tuy nhiên một phần di sản khác của thời kỳ Chiến tranh lạnh đã trở thành một vấn đề thử thách và nan giải cho cả những nhà làm chính sách lẫn các nhà tư tưởng về chính trị. Các chế độ được bầu lên theo thể thức dân chủ và thông thường ngay cả những chế độ đã được bầu lại hay được xác nhận lại qua các cuộc trưng cầu dân ý, lại không để ý đến những giới hạn quy định trong hiến pháp và do đó đã không cho người dân được hưởng các quyền cơ bản và quyền tự do. Tại nhiều vùng trên thế giới ta thấy phát sinh hiện tượng ngày càng gia tăng của chế độ dân chủ phi tự do.

Cốt lõi của vần đề này nằm ở sự khác biệt giữa chế độ dân chủ và chủ nghĩa hợp hiến. Vấn đề này khó được nhận rõ vì ở phương Tây, ít ra là trong một thế kỷ, dân chủ thường là đi đôi với tự do. Trên lý thuyết, sự liên hệ của tự do với một chủ nghĩa hợp hiến thực ra khác với liên hệ của tự do với chế độ dân chủ. Từ thời đại của Platon và Aristotle, dân chủ đã có nghĩa là chính quyền của nhân dân. Quan niệm như vậy về dân chủ, tức là quá trình lựa chọn chính quyền, đã được trình bày rõ ràng bởi các học giả từ Alexis de Tocqueville [1] tới Joseph Schumpeter [2] và Robert Dahl [3]. Nhà chính trị học Samuel Huntington [4] đã giải thích tại sao lại có tình trạng như vậy: bầu cử – công khai, tự do và công bằng – là điều thiết yếu, không thể thiếu được trong chế độ dân chủ. Tuy nhiên chính phủ được bầu lên có thể không hữu hiệu, thối nát, thiển cận, vô trách nhiệm, bị chi phối bởi các đặc lợi, và do đó không thể thi hành được những chính sách theo đúng với lợi ích chung. Những điều đó khiến cho các chính phủ không được ưa chuộng nữa nhưng không phải vì thế mà các chính quyền đó không dân chủ. Dân chủ là một đặc trưng tốt cho xã hội nhưng nó không là đặc trưng duy nhất. Sự liên hệ của dân chủ với các đặc trưng tốt cũng như xấu khác của xã hội chỉ có thể hiểu rõ hơn nếu ta tách rời dân chủ ra khỏi những đặc trưng khác của các hệ thống chính trị.

Nhưng chế độ bầu cử và sự hậu thuẫn của quần chúng không phải lúc nào cũng bảo đảm một chế độ tự do và cai trị theo hiến pháp. Càng ngày người ta càng cảm thấy không yên tâm trước sự lan tràn của các cuộc bầu cử có nhiều đảng phái tham gia tại miền nam trung tâm châu Âu, tại châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh, có lẽ vì những điều gì đã xảy ra sau khi bầu cử. Một số lãnh tụ được lựa chọn do bầu cử sau đó đã qua mặt quốc hội và cai trị bằng sắc lệnh của tổng thống và do đó đã làm băng hoại các thể thức cai trị theo hiến pháp.

Lẽ dĩ nhiên cũng có những mức độ khác nhau trong các chế độ dân chủ phi tự do: từ những chế độ vi phạm nho nhỏ cho tới chế độ gần như là chuyên chế. Tại châu Mỹ La tinh có những chế độ đã tồn tại hàng thậpniên qua các hoàn cảnh kinh tế rất khó khăn mà vẫn không gặp phải sự chống đối công khai nào của giới quân đội cũng như của các đảng chống chính phủ. Nhưng các chế độ đó vẫn chưa được củng cố. Có nhiều nước vẫn tồn tại mặc dầu vẫn còn yếu kém về phương diện định chế hóa các cơ cấu chính thức của chế độ dân chủ. Tuy nhiên, củng cố dân chủ không thể nào hoàn tất được nếu không có chế độ tự do theo hiến pháp. Ngoài việc thỏa thuận về các quy tắc cạnh tranh quyền lực, về cơ bản còn cần phải có những cơ chế tự kiểm soát việc thực thi quyền lực. Một hậu quả của việc quá nhấn mạnh dân chủ thuần túy như một trắc nghiệm tối hậu để xem có tự do hay không là có ít nỗ lực trong việc làm ra các hiến pháp sáng tạo cho các quốc gia đang ở trong giai đoạn chuyển tiếp. Chỉ đưa ra lịch trình bầu cử thường xuyên hay làm bảng liệt kê các quyền cũng chưa đủ mà phải xây dựng một hệ thống để đảm bảo các quyền đó không bị xâm phạm. Chính thể theo hiến pháp không thể chỉ giới hạn trong việc ấn định thể thức lựa chọn chính quyền mà phải nhìn xa hơn để tạo ra các cơ cấu có cân nhắc kỹ lưỡng, không bị chi phối bởi các tình cảm sôi nổi của quần chúng, để bảo vệ quyền tự do cá nhân và chế độ pháp trị. Điều này đòi hỏi phải có sự cam kết hỗ tương giữa các thành phần tinh hoa của đất nước – qua cơ chế điều hợp của hiến pháp, qua các định chế chính trị liên hệ và thường là qua cả các sự thỏa hiệp hay dàn xếp giữa các thành phần tinh hoa nữa – để cho chính quyền có thể duy trì trật tự bằng cách thành lập các liên minh giữa các đảng chính trị và các nhóm lợi ích. Mục đích là để có thể thực hiện được các giới hạn đối với chính quyền, dù là chính quyền đó dưới sự kiểm soát của bất cứ đảng nào và vào bất cứ lúc nào. Vào đầu thế kỷ 20, Tổng thống Woodrow Wilson muốn thế giới an toàn để thực thi dân chủ. Sự thử thách trong thế kỷ sắp tới có thể sẽ là phải làm sao cho dân chủ an toàn đối với thế giới.

Chú thích:

(1) Alexis-Charles-Henri Clérel de Tocqueville (1805-1859): Nhà tư tưởng chính trị và sử gia của Pháp. Tác phẩm nổi tiếng của ông là “Dân chủ tại Mỹ” [Democracy in America, 1835 và 1840] và “Chế độ cũ và cuộc Cách mạng” [The Old Regime and the Revolution (1856)].
(2) Joseph Alois Schumpeter (1883-1950): Kinh tế gia người Áo, nổi tiếng về các tác phẩm về lịch sử tư tưởng kinh tế.
(3) Robert Dahl: Giáo sư danh dự tại phân khoa Chính trị học, Đại học Yale, hội viên Viện hàn lâm Khoa học quốc gia, Hội triết học Hoa Kỳ và viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Hoa Kỳ.
(4) Samuel P. Huntington: Giáo sư Đại học Albert J. Weatherhead III, tốt nghiệp Đại học Yale khi 18 tuổi, tham gia quân đội, lấy bằng tiến sĩ tại Đại học Harvard và bắt đầu giảng dạy tại đại học này khi mới 23 tuổi.

Nguồn bản gốc: Russell, Greg (2001). "Constitutionalism: America & Beyond", in Melvin Urofsky, ed. The Democracy Papers (Washington, D.C.: US Department of State, 2001), pp. 1-5.