Tất định luận và tự do lựa chọn - Chương 2: Tính tất yếu của lịch sử (Phần 5)

Tất định luận và tự do lựa chọn - Chương 2: Tính tất yếu của lịch sử (Phần 5)

Tất cả các phán xét, và chắc chắn là tất cả những phán xét liên quan đến các sự kiện, đều dựa trên - chứa đựng - những khái quát hóa, dù là sự kiện hay giá trị hoặc là cả hai, và có thể chẳng có nghĩa gì ngoại trừ ở dưới dạng thức của những khái quát hóa như thế. Sự thật hiển nhiên này tuy vậy vẫn có thể dẫn đến những điều lầm tưởng kinh khủng, khi mà tự bản thân nó còn chưa gây ngạc nhiên. Vì thế một số trong những truyền nhân của Descartes, vốn giả định rằng bất cứ thứ gì là chân lí thì phải có khả năng hiện hữu (ít nhất cũng về nguyên tắc), được trình bày dưới hình thức những khái quát hóa khoa học (tức là ít nhất cũng rõ ràng một cách gần như-toán học hay toán học) [họ] kết luận, giống như Comte và các môn đệ của ông đã làm, rằng những khái quát hóa không tránh khỏi trong các phán xét lịch sử phải có khả năng được phát biểu sao cho y hệt như là các định luật xã hội học khả dĩ chứng minh được; trong khi ấy các đánh giá, nếu chúng không thể được trình bày dưới dạng thức như thế, phải bị đẩy xuống một nhà kho “chủ quan” nào đó, như là những đồ lặt vặt mang tính “tâm lí”, như là những biểu hiện thái độ thuần túy cá nhân, những đồ dư thừa phi khoa học, về nguyên tắc có thể bị loại bỏ hoàn toàn, và phải giữ ở thật xa như có thể, khỏi vương quốc khách quan, vốn là nơi chúng không có chỗ ở đó. Bất cứ khoa học nào (chúng ta được mời gọi tin vào điều này) sớm muộn gì cũng phải giũ sạch bản thân khỏi những gì, nhẹ nhất là những thứ không thích hợp, tệ nhất là những vật cản trở, để cho tầm nhìn được sáng rõ.

Quan điểm này nảy sinh từ chính sự quyến rũ có thể hiểu được với thái độ “trung lập” về đạo đức của các nhà khoa học tự nhiên, và từ nỗi khao khát ganh đua với họ trong những lĩnh vực khác. Thế nhưng quan điểm này dựa trên một sự tương đồng trá ngụy. Vì rằng những khái quát hóa của các nhà sử học khác biệt với những khái quát hóa của các nhà khoa học ở chỗ những đánh giá mà họ bao hàm, dù là đạo đức hay chính trị, thẩm mĩ hay thuần túy lịch sử (như họ thường vẫn cho là thế), [những đánh giá ấy] mang tính bản chất nội tại và không phải như trong các khoa học là mang tính bản chất ngoại tại, trong quan hệ với chủ thể [nghiên cứu]. Nếu tôi là một nhà sử học và muốn giải thích những nguyên nhân của cuộc đại Cách mạng Pháp, lẽ tự nhiên tôi phải giả định xem những xác nhận chung nhất định nào đó là đúng. Tôi cũng giả định như thế rằng tất cả những định luật vật lí thông thường được thừa nhận về thế giới bên ngoài là áp dụng được. Tôi cũng giả định rằng tất cả mọi người, hay phần đông mọi người, đều có nhu cầu và có ý thức tìm kiếm thực phẩm, áo quần, nơi cư trú, một mức độ bảo hộ nào đó đối với con người cá nhân của họ, và những phương tiện tiếp nhận những nỗi bất bình của họ được lắng nghe hay được phản hồi lại. Có thể tôi giả định điều gí đó đặc thù hơn, ấy là những người đạt được mức độ nào đó về của cải hay sức mạnh kinh tế sẽ không chịu bằng lòng mãi với việc không có quyền chính trị hay danh phận xã hội; hoặc là người ta luôn là nạn nhân của những đam mê khác nhau - tham lam, ghen tị, ham quyền lực; hoặc là có một số người tham vọng, tàn nhẫn, xảo trá hay cuồng tín hơn những người khác; và v.v. Đây là những giả định về trải nghiệm chung; một số giả định có thể sai; một số bị thổi phồng lên, một số là lầm lẫn, hay không áp dụng được cho những tình huống được xem xét. Ít có những giả định trong số đó khả dĩ phát biểu được dưới hình thức những giả thuyết của khoa học tự nhiên; những giả định có thể thử nghiệm bằng thí nghiệm quyết định thì lại còn ít hơn nữa, vì rằng chúng thường không đủ sáng tỏ và sắc nét và được định nghĩa chính xác, nên không có khả năng được tổ chức lại trong một cấu trúc hình thức cho phép suy luận ra nhau hay loại trừ lẫn nhau, và hệ quả là không thể xử lí theo logic chặt chẽ hay dùng toán học. Hơn thế nữa: nếu quả thật chúng chứng minh được khả năng phát biểu như vậy, thì chúng sẽ mất đi một phần tính hữu ích của chúng; những mô hình lí tưởng hóa của kinh tế học (không kể đến những mô hình như thế trong vật lí học hay sinh lí học) sẽ có ứng dụng hạn hẹp trong nghiên cứu hay miêu tả lịch sử. Những môn học không chính xác này phụ thuộc ở một mức độ nhất định về tính cụ thể, sự mập mờ, nhập nhằng, tính chất gợi ý, sinh động và v.v. vốn bao hàm trong những đặc tính của ngôn ngữ lí lẽ thông thường và ngôn ngữ của văn chương cũng như của những chuyên ngành nhân văn. Mức độ và thể loại của sự chính xác hiển nhiên phụ thuộc vào ngữ cảnh, lĩnh vực, và vấn đề chủ thể; những quy tắc và phương pháp của môn đại số dẫn đến những điều phi lí nếu được áp dụng vào trong nghệ thuật, chẳng hạn như tiểu thuyết, vốn là thứ có những chuẩn mực chính xác riêng biệt kinh khủng. Những phương pháp rèn luyện chính xác của Racine hay Proust đòi hỏi thiên tài ở mức độ lớn và thật đáng ca ngợi đối với trí tuệ (cũng như sức tưởng tượng) của loài người, giống như các phương pháp rèn luyện của Newton hay Darwin hay Hilbert105, thế nhưng những thể loại phương pháp ấy (ở đây không có giới hạn lí thuyết về số lượng của chúng) không thể hoán đổi cho nhau. Chúng có thể có quá ít những thứ có thể học hỏi lẫn nhau; Stendhal có thể học hỏi được điều gì đó ở những nhà văn Ấn tượng thế kỉ 18, hay những Nhà tư tưởng (Ideologues) cùng thời với ông, hay từ Bộ luật Napoléon. Thế nhưng khi Zola dự tính thật nghiêm chỉnh về khả năng của một “tiểu thuyết thử nghiệm” theo nghĩa đen, đặt nền tảng trực tiếp trên những kết quả của phương pháp và các kết luận khoa học, và được kiểm soát bởi chúng, thì ý tưởng chủ yếu vẫn là thai nhi chết lưu, giống như tiểu thuyết tập thể của những lí thuyết gia cộng sản Nga thời sơ kì cũng vẫn là như vậy vì những lí do tương tự: và không phải là vì chúng ta không (vẫn chưa) biết đủ số lượng những sự kiện (hay định luật), mà bởi vì những khái niệm liên quan trong các thế giới được miêu tả bởi các tiểu thuyết gia (hay các nhà sử học) không phải là những khái niệm được tinh chế nhân tạo của những mô hình khoa học - những thực thể được lí tưởng hóa mà các định luật tự nhiên được phát biểu dưới dạng thức của chúng - mà là những khái niệm có nội dung phong phú hơn nhiều, nhưng ít đơn giản và hợp lí về logic trong cấu trúc hơn.

Tất nhiên có một số tác động qua lại giữa một “bức tranh thế giới” nhất định mang tính khoa học và những quan điểm về cuộc đời theo ý nghĩa thông thường của từ ngữ này; cái thứ nhất có thể gây ra những thôi thúc mãnh liệt cho cái sau. Các nhà văn như H.G. Wells hay Aldous Huxley hẳn đã không miêu tả (hay bị hiểu lầm thật quá đáng) cả cuộc sống xã hội lẫn cuộc sống cá nhân như đôi khi các ông đã làm, nếu giả sử các ông đã không bị ảnh hưởng bởi các môn khoa học tự nhiên đến mức độ thái quá vào thời của mình. Thế nhưng ngay cả những nhà văn như các ông cũng không thực sự diễn dịch bất cứ điều gì từ những khái quát hóa khoa học; cũng không sử dụng trong các trước tác của mình bất cứ thứ gì có vẻ giống các phương pháp khoa học thật sự; vì điều này không thể làm ở bên ngoài lĩnh vực thích đáng của nó mà lại không trở thành hoàn toàn phi lí. Mối quan hệ của các khoa học với việc viết sử là phức tạp và gần gũi: nhưng chắc chắn không phải là đồng nhất hay thậm chí tương tự. Phương pháp khoa học là không thể thiếu trong những bộ môn, chẳng hạn như cổ tự học, nghiên cứu văn khắc, hay khảo cổ học, hay kinh tế học, hay trong những hoạt động hỗ trợ cho môn lịch sử, cung cấp cho nó bằng chứng và giúp giải quyết những vấn đề đặc thù. Tuy nhiên, những gì mà các bộ môn ấy thiết lập không bao giờ là đủ để cấu thành một tự sự lịch sử. Chúng ta chọn lựa những sự kiện hay những nhân vật nhất định vì chúng ta tin rằng chúng có mức độ đặc biệt về “ảnh hưởng”, hay “quyền lực”, hay tầm quan trọng. Những thuộc tính ấy thường không đo lường định lượng được, cũng không thể biểu tượng hóa theo thuật ngữ của một khoa học chính xác hay thậm chí bán chính xác. Nhưng chúng cũng không thể bị trừ bỏ hay tách ra từ những sự kiện - những biến cố hay những nhân vật - nhiều hơn là những đặc trưng vật lí hay thứ tự niên đại; chúng đi vào biên niên sử nguyên sơ nhất, trần trụi nhất của các sự kiện: đây là chân lí muôn thuở để nói lên điều này. Những phạm trù đạo đức hiển nhiên nhất, ý kiến về tốt và xấu, đúng và sai, trong mức độ chúng thấm vào những đánh giá của chúng ta về các xã hội, các cá nhân, các tính cách, hành động chính trị, những trạng thái tâm hồn, [những phạm trù ấy] khác hoàn toàn về nguyên tắc với những phạm trù “phi-đạo đức” không thể thiếu được về giá trị, như là “quan trọng”, “tầm thường”, “đáng kể” và v.v.., liệu điều này đã thật quá rõ ràng hay chưa? Có thể người ta còn cho rằng những quan điểm về những gì được xem là “quan trọng” - những cuộc chinh phục của Alexander hay của Thành Cát Tư Hãn, hay sự sụp đổ của Đế chế La Mã, hay cuộc Cách mạng Pháp, hay sự trỗi dậy và suy vong của Hitler - bao hàm những đánh giá tương đối bền vững hơn là những đánh giá “đạo đức” một cách hiển nhiên hơn, hoặc là hẳn có sự đồng thuận chung nhiều hơn về thực tế cho rằng các cuộc Cách mạng Pháp hay Nga là những sự kiện “trọng đại” (theo nghĩa giai điệu mà trưa hôm qua tôi ngâm nga thì không phải thế), hơn là về chuyện Robespierre là người tốt hay người xấu, hoặc xử tử những kẻ cầm đầu chế độ Quốc xã ở Đức là đúng đắn hay sai trái. Và chắc chắn một số khái niệm và phạm trù theo nghĩa đó là phổ quát hơn hay “bền vững” hơn những khái niệm và phạm trù khác106. Thế nhưng chúng không phải là “khách quan” theo nghĩa tuyệt đối rõ ràng mà các ý kiến đánh giá đạo đức lại không phải thế. Vì ngôn ngữ lịch sử của chúng ta, những từ ngữ và những suy tưởng mà chúng ta dùng để cố phản ánh hay miêu tả lại những sự kiện và nhân vật của quá khứ, đều bao hàm những khái niệm và phạm trù đạo đức - những chuẩn mực bao gồm cả bền lâu lan ngăn ngủi nhất thời - cũng thật sâu đậm như những ý niệm khác về giá trị. Những ý niệm của chúng ta về Napoléon hay Robespierre như là quan trọng vêd lịch sử, như là đáng để chúng ta chú ý theo nghĩa khác với thiểu số những kẻ đi theo họ (cũng như chính ý nghĩa của thuật ngữ như là “trọng đại” và “nhỏ bé”), [những ý niệm ấy] dẫn xuất từ thực tế cho thấy phần đóng góp của những nhân vật đó trong việc xúc tiến hay làm chậm lại những lợi ích hay những lí tưởng của một số rất đông những người đương thời với họ (mà những lợi ích hay lí tưởng của chúng ta bị cột vào cùng với chúng), [phần đóng góp ấy] là rất đáng kể; thế thì những phán xét “đạo đức” của chúng ta về họ cũng phải như vậy thôi. Vẽ ra đường ranh giới ở đâu - để loại trừ những phán xét bị xem là quá chủ quan nên không được tính đến, mà chúng ta muốn làm thật “khách quan” như có thể, tức là được xác nhận bởi những sự kiện khả dĩ khám phá, kiểm tra và so sánh được một cách công khai, thật tốt như chúng ta có thể làm - đó là một vấn đề của phán xét bình thường, tức là ý muốn nói những gì được thông qua như vậy trong xã hội chúng ta, vào thời điểm và địa điểm của chính chúng ta, trong những người mà chúng ta muốn hướng họ lưu ý tới, với tất cả những điều giả thiết được cho là ít nhiều dĩ nhiên trong giao lưu bình thường.

Vì rằng không có đường ranh giới rõ rệt và nhanh chóng giữa “chủ quan” và “khách quan”, thì từ đó cũng không suy ra rằng chẳng có đường ranh giới nào hết; và vì rằng những phán xét về “tầm quan trọng”, thường cũng có ý là “khách quan”, khác biệt về một số mặt với những phán xét đạo đức, vốn vẫn thường hay bị ngờ là đơn thuần “chủ quan”, thì từ đó cũng không suy ra rằng “đạo đức” cũng chẳng khác gì là “chủ quan”: rằng có tính chất huyền bí nào đó khiến cho những phán xét gần như-thẩm mĩ hay chính trị phân biệt cốt yếu với không cốt yếu, có tính quyết định với tầm thường, đều là có bản chất nội tại sao đó trong tư duy và miêu tả lịch sử. Không được suy ra rằng, những ngụ ý đạo đức dính líu với trách nhiệm va gia tn đạo đức, có thể bị từ bỏ bằng cách nào đó vì chúng tạo thành từ một thứ phụ thêm ngoại lai, một tập hợp các thái độ xúc cảm chủ quan hướng đến một khối các sự kiện được thừa nhận chung, “khắc nghiệt”, có thể kiểm tra công khai; cứ tựa hồ như là những “sự kiện” ấy bản thân chúng không tràn đầy những đánh giá như thế, cứ tựa hồ như là một sự phân biệt khắc nghiệt và nhanh chóng có thể được tạo nên bởi các nhà sử học hay bởi ai đó khác, giữa những gì thực sự là đúng và những gì là sự đánh giá về các sự kiện, theo nghĩa một sự đánh giá như thế hẳn là một sự xâm nhập không thích hợp và có thể tránh được, vào những lĩnh vực như vật lí học hay hóa học (và ngờ rằng cả vào môn kinh tế học và xã hội học), mà ở đó những “sự kiện” có thể và cần phải được miêu tả tuân theo các quy tắc của các khoa học ấy thật xa như có thể, không có ẩn ý bóng gió về đạo đức.

Nguồn: Tất định luận và tự do lựa chọn (Liberty, Nhà xuất bản Oxford University Press, 2002) của Isaiah Berlin, do dịch giả Nguyễn Văn Trọng dịch một cách đầy đủ và mạch lạc

Dịch giả:
Nguyễn Văn Trọng