Tất định luận và tự do lựa chọn - Chương 1: Các ý tưởng chính trị trong thế kỉ 20 (Phần 6)

Tất định luận và tự do lựa chọn - Chương 1: Các ý tưởng chính trị trong thế kỉ 20 (Phần 6)

Thái độ mới, dựa trên chính sách làm giảm bớt bất hòa và khốn khổ bằng cách làm suy giảm các năng lực có khả năng gây ra chúng, lẽ tự nhiên là thù địch với tính hiếu kì bất vụ lợi (là thứ có thể bị chấm dứt ở bất cứ nơi nào), hay ít nhất cũng nghi ngờ nó, và nhìn thực hành của tất cả các nghệ thuật không hiển nhiên có ích cho xã hội, nhẹ nhất cũng như là những hình thức của tình trạng nông nổi xã hội. Theo quan điểm này, những công việc như thế, khi nó không là một mối đe dọa rõ ràng, sẽ là chuyện vớ vẩn gây bực tức và thật lãng phí, là thứ rong chơi tầm thường, là làm tiêu hao và sử dụng lạc hướng năng lượng - một thứ dù sao cũng khó tích tụ được cho đủ, cho nên phải toàn tâm toàn ý và luôn luôn hướng vào việc xây dựng và duy trì cái toàn thể mang tính xã hội, được điều chỉnh tốt - đôi khi được gọi là “hòa hợp”. Trong trạng thái đầu óc như thế thì việc các thuật ngữ như “chân lí” hay “danh dự” hay “nghĩa vụ” hay “vẻ đẹp” trở nên biến dạng, đơn thuần trở thành những vũ khí tấn công hay phòng thủ, được nhà nước hay đảng phái sử dụng trong cuộc đấu tranh để tạo ra một cộng đồng trơ lì trước các ảnh hưởng vượt ra ngoài kiểm soát trực tiếp của họ, [việc như vậy] sẽ chỉ là chuyện tự nhiên mà thôi. Kết quả này có thể đạt được hoặc là bằng kiểm duyệt cứng rắn và cách li với phần thế giới còn lại - một thế giới vẫn còn tự do ít nhất cũng trong ý nghĩa là vẫn còn nhiều cư dân tiếp tục nói ra điều họ muốn nói, là nơi mà các từ ngữ còn tương đối vô tổ chức, với tất cả những hệ lụy không đoán trước được bắt nguồn từ đó và do đó mà “thật nguy hiểm”; hoặc là nó có thể đạt được bằng việc mở rộng phạm vi kiểm soát chặt chẽ cho đến khi bao trùm được tất cả mọi nguồn gốc khả dĩ của tình trạng vô chính phủ, nghĩa là toàn thể loài người. Chỉ có bằng một trong hai thủ đoạn như vậy mới có thể đạt được một tình thế, mà ở đó hành vi của con người có thể được thao túng tương đối dễ dàng bởi các chuyên gia có trình độ kĩ xảo cao - điều chỉnh các xung đột và xúc tiến hòa bình cho cả thân thể lẫn tâm hồn, các kĩ sư và các chuyên viên khoa học khác phục vụ cho nhóm cầm quyền, các nhà tâm lí học, xã hội học, các nhà đặt kế hoạch kinh tế và xã hội và v.v. Rõ ràng đó không phải là một bầu không khí trí tuệ tạo thuận lợi cho tính độc đáo về phán xét, đạo đức độc lập hay sức mạnh thấu hiểu đặc biệt. Toàn bộ xu hướng theo trật tự như vậy là nhằm quy giản tất cả mọi vấn đề thành các vấn đề kĩ xảo có độ phức tạp ít hơn hay nhiều hơn, đặc biệt là trong vấn đề làm sao để tồn tại, để loại bỏ được tình trạng thiếu khả năng thích nghi, để đạt được điều kiện khiến cho các khả năng tâm lí hay kinh tế của cá nhân được chế ngự, nhằm tạo ra tối đa thái độ hài lòng xã hội không gợn bóng mây (unclouded social contentment), tương hợp được với việc chống lại mọi thí nghiệm ở bên ngoài ranh giới của hệ thống; và điều này về phần mình lại phụ thuộc vào việc dập đi bất cứ thứ gì trong con người cá nhân khả dĩ gây hoài nghi hay tự khẳng định mình chống lại một kế hoạch đơn nhất bao trùm mọi thứ, làm sáng tỏ mọi thứ, thỏa mãn mọi thứ.

Khuynh hướng này hiện hữu trong mọi xã hội ổn định - có lẽ là trong mọi xã hội như nó là vậy - trong khi có tình trạng đàn áp mọi ảnh hưởng đối địch, nó đã có một hình thức đặc biệt nghiêm trọng như ở Liên Xô chẳng hạn. Ở đây tình trạng phụ thuộc vào kế hoạch trung ương và việc xóa bỏ mọi sức mạnh gây phiền nhiễu, dù là bằng giáo dục hay đàn áp, đã được trình diễn với khả năng tin tưởng vào cảm hứng của hệ tư tưởng theo đúng nghĩa của từ ngữ - tin tưởng vào khả năng và nghĩa vụ của con người đưa ý tưởng vào thực hành một cách đầy đủ, nghiêm khắc và ngay lập tức - là những thứ mà các nhà tư tưởng Nga thuộc mọi trường phái hình như ưa chuộng khác thường. Khuôn mẫu Xô viết là sáng tỏ, giản dị và được diễn dịch từ những tiền đề “đã được chứng minh một cách khoa học”. Nhiệm vụ thực hiện nó phải được tin cậy giao cho những tín đồ đã được huấn luyện về kĩ xảo, là những kẻ nhìn vào những con người được giao cho chúng sử dụng như vật liệu vô cùng dễ dàng uốn nắn trong phạm vi đã được khoa học khám phá. Nhận xét của Stalin, rằng các nghệ sĩ sáng tạo là những “kĩ sư tâm hồn”46, là một cách nói rất chính xác về tinh thần. Sự hiện diện của thứ gì đó tương tự ở trong các xã hội phát xít khác nhau, với trực cảm hay bản năng được thế vào chỗ khoa học và vô liêm sỉ thế vào chỗ đạo đức giả, cũng rõ ràng cho mọi người đều thấy như thế. Ở Tây Âu, khuynh hướng này có hình thức ôn hòa hơn của việc dịch chuyển trọng tâm rời khỏi bất đồng về các nguyên tắc chính trị (và rời khỏi các cuộc đấu tranh đảng phái ít nhất cũng sinh ra từ những khác biệt đích thực về quan điểm) sang các bất đồng về cơ bản mang tính kĩ xảo, về các phương pháp - về những cách thức tốt nhất để đạt được mức độ tối thiểu cho kinh tế hay ổn định xã hội, nếu không phải là những vấn đề như thế thì các luận cứ liên quan đến các nguyên lí cơ bản và các mục đích của đời sống được bỏ lại thành các luận cứ “trừu tượng”, “hàn lâm” và không liên quan đến những nhu cầu cấp bách của thời khắc. Nó dẫn đến việc gia tăng rõ rệt từ phía dân chúng Tây Âu lục địa, thái độ thiếu quan tâm đến những vấn đề chính trị mang tính lâu dài - như đối lập với các vấn đề kinh tế và xã hội mang tính cấp thời của ngày hôm nay - khiến cho những người quan sát Mĩ và Anh khiếp sợ phải lên án, những người này đã lầm lẫn quy chuyện đó cho tình trạng gia tăng của thái độ vô liêm sỉ và vỡ mộng với các lí tưởng.

Chắc chắn mọi hành động từ bỏ những giá trị cũ để theo những giá trị mới, đối với những người trung thành với những giá trị cũ còn sống sót, có vẻ giống như việc coi thường đạo đức, như bản thân nó, một cách vô lương tâm. Nếu vậy thì đó là một lầm tưởng to lớn. Cũng có rất nhiều niềm tin trong những giá trị mới, dù là vô lương tâm hay vô cảm. Họ đều bám lấy niềm tin phi lí, khiến cho họ không nhận ra thói bất khoan dung đối với chủ nghĩa hoài nghi, vốn đôi lúc từ sự phá sản trong nội tâm hay từ khủng bố, nảy sinh niềm hi vọng chống lại cái thứ hi vọng đang cho rằng ở đây ít ra cũng là một nơi ẩn náu, tuy chật chội, tăm tối và bị cắt lìa, nhưng an toàn. Ngày càng có thêm nhiều người sẵn sàng theo đuổi ý nghĩa áy của an toàn, ngay cả với cái giá cho phép kiểm soát những miền rộng lớn của đời sống bởi những người hành động có hệ thống, dù họ có ý thức hay không, nhằm thu hẹp lại chân trời của hoạt động nhân bản về những quy mô có thể quản lí được, nhằm huấn luyện người ta thành những bộ phận có thể dễ dàng phối hợp với nhau hơn - chuyển đổi lẫn nhau được, hầu như được đúc sẵn - của một khuôn mẫu tổng thể. Đối mặt với một khát khao mạnh mẽ muốn ổn định, nếu cần thì ở trình độ thấp nhất cũng được - cho đến tận đáy sàn mà từ đó anh không còn té ngã được nữa, là cái đáy sàn không thể phản bội lại anh để hạ anh xuống nữa - tất cả những nguyên tắc chính trị cổ xưa bắt đầu tiêu tan, những biểu tượng yếu ớt của những tín điều là không còn phù hợp với những hiện thực mới mẻ nữa

Quá trình này không tiến lên theo cùng một nhịp bước ở khắp mọi nơi. Ví dụ như ở Hợp chúng quốc vì những lí do kinh tế hiển nhiên, nên thế kỉ 19 tồn tại mạnh mẽ hơn là ở bất cứ nơi nào khác. Các vấn đề chính trị và các xung đột, các chủ đề cho thảo luận và những nhân cách được lí tưởng hóa của các nhà lãnh đạo dân chủ, làm nhớ lại nhiều hơn về một châu Âu thời Victoria, hơn bất cứ thứ gì có thể tìm thấy được ở [châu Âu] lục địa ngày nay.

Woodrow Wilson là người theo chủ nghĩa tự do thế kỉ 19 trong ý nghĩa rất đầy đủ và rộng rãi. Thỏa thuận mới (New Deal) và nhân cách của Tổng thống Roosevelt47 đã kích động những cảm xúc chính trị giống như những trận chiến dữ dội xung quanh Gladstone48 hay Lloyd George49, hay các chính phủ chống thư lại vào thời kì cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 ở Pháp, nhiều hơn là bất cứ thứ gì cùng thời với nó ở châu Âu; và sự nghiệp tự do vĩ đại ấy chắc chắn là thỏa hiệp mang tính xây dựng nhiều nhất giữa tự do cá nhân và an toàn kinh tế mà thời đại chúng ta được chứng kiến, phù hợp gần gũi nhiều hơn với những lí tưởng chính trị và kinh tế của John Stuart Mill trong giai đoạn cuối đời theo chủ nghĩa xã hội nhân văn của ông, hơn là tư tưởng tả khuynh ở châu Âu những năm 1930. Cuộc tranh cãi về tổ chức quốc tế, về Liên Hiệp quốc và những cơ quan phụ thuộc của nó, cũng như về những định chế quôdc tế khác sau chiến tranh, giống với những cuộc tranh cãi mà sau năm 1918 đã diễn ra xung quanh Hội Quốc liên, là hoàn toàn hiểu được trong dạng thức của các lí tưởng chính trị thế kỉ 19, cho nên chiếm được sự chú ý và có ý nghĩa nhiều hơn ở Mĩ so với châu Âu. Hợp chúng quốc có thể đã chối bỏ Wilson, nhưng nó vẫn tiếp tục sống trong bầu không khí đạo đức không khác lắm so với thời của Wilson - thế giới đạo đức trắng đen rõ ràng của các giá trị thời Victoria. Những sự kiện năm 1918 làm day dứt lương tâm nước Mĩ suốt 25 năm, trong khi ở châu Âu bầu không khí cuồng nhiệt (exalté) của những năm 1918-1919 ít lâu sau đã tiêu tan - một giây phút tỏa sáng ngắn ngủi mà khi hồi tưởng lại thấy có vẻ giống Mĩ nhiều hơn châu Âu, biểu lộ cuối cùng ở châu Âu về một truyền thống vĩ đại nhưng đang chết trong một thế giới đang sống, và ý thức đầy đủ là đang sống trong một môi trường mới, ý thức quá rõ về những khác biệt với quá khứ của mình và bực bội với quá khứ ấy. Gián đoạn không phải đột ngột và toàn thể, [không phải] một chuyển cảnh sân khấu đầy bất ngờ50. Nhiều mầm mống được trồng từ thế kỉ 18 hay 19 đã nở hoa chỉ vào thế kỉ 20: không khí chính trị và đạo đức trong đó các công đoàn hưng thịnh, ví dụ như ở Đức, hay Anh, hay Pháp, chứa đựng những phần tử của các học thuyết quen thuộc xưa kia về quyền và nghĩa vụ của con người, là tài sản chung của hầu hết các đảng phái, dù có tán thành hay không, rồi là những quan điểm trong hàng trăm năm tự do, nhân bản, theo chủ nghĩa bành trướng của hòa bình và tiến bộ lỡ thuật.

Dòng chảy chính của thế kỉ 19 tất nhiên vẫn còn sống trong hiện tại và nhất là ở Mĩ, vùng Scandinava và khối thịnh vượng chung của Anh; thế nhưng đó không phải là thứ đặc trưng nhất của thời đại ngày nay. Vì trong quá khứ đã có những xung đột về ý tưởng; trong khi đó điều đặc trưng cho thời đại hiện nay phần nhiều là con sóng tràn lên của thái độ thù địch với mọi ý tưởng như bản thân nó, mà không phải là cuộc đấu tranh của một tập hợp các ý tưởng này chống lại một tập hợp khác. Vì ý tưởng được xem như nguồn gốc của quá nhiều lo lắng, cho nên có một xu hướng muốn dập đi xung đột giữa những đòi hỏi tự do được có các quyền cá nhân về chính trị với tình trạng bất công kinh tế hiển nhiên, vốn là thứ xung đột có thể nảy sinh từ việc thỏa mãn những đòi hỏi [tự do] ấy (nó tạo nên thực chất của phê phán xã hội chủ nghĩa), bằng cách cho chìm xuồng cả hai thứ trong một chế độ độc đoán xóa bỏ vùng tự do, mà ở trong đó có thể xảy ra xung đột. Cái điển hình đích thực của thời đại ngày nay là một khái niệm mới về xã hội, giá trị của xã hội có thể phân tích được không phải dưới dạng thức của những khát khao hay ý nghĩa đạo đức cổ vũ cho quan điểm về những mục đích tối hậu của nó, được duy trì bởi một nhóm người hay một cá nhân, mà là từ một giả thuyết căn cứ trên sự kiện nào đó hay từ một giáo điều siêu hình học về lịch sử, hay chủng tộc, hay đặc tính dân tộc, dưới những dạng thức ấy mà những lời giải đáp cho câu hỏi cái gì là tốt đẹp, đúng đắn, cần phải có, đáng mong muốn, thích đáng, có thể được diễn dịch “một cách khoa học”, hay có thể trực giác được, hay có thể biểu hiện ra trong loại hành vi này hay hành vi kia. Chỉ có một hướng đi và chỉ một mà thôi, trong hướng đi ấy một khối tập hợp các cá nhân nhất định được quan niệm như đang chuyển động, bị lôi cuốn đi tới đó bởi những sức mạnh khách quan gần như huyền bí, tỉ như cấu trúc giai cấp của họ, hay tiềm thức tập thể của họ, hay nguồn gốc chủng tộc của họ, hay những gốc rễ “chân thực” mang tính xã hội hay vật thể của cái “huyền thoại” này hay kia mang tính “nhân dân” hay “nhóm”. Hướng đi có thể biến đổi được, nhưng chỉ bằng cách can thiệp vào nguyên nhân tàng ẩn của hành vi - những người muốn can thiệp vào thực thể, theo quan điểm này, được tự do xác định hướng đi riêng của mình và hướng đi của những người khác trong mức độ giới hạn, không phải bằng cách gia tăng tính duy lí và bằng luận cứ nhằm vào nó, mà bằng thấu hiểu cao siêu về cơ chế của hành vi xã hội và tài khéo trong việc thao túng nó.

Trong kiểu cách trâng tráo ấy, lời tiên tri của Saint-Simon về việc “thay thế cai trị con người bằng quản trị các sự vật” (trong câu nhái lại của Engels)51 cuối cùng đã trở thành sự thật - một lời tiên tri thật dũng cảm và đầy lạc quan. Các sức mạnh vũ trụ được nhận thức như có quyền năng tuyệt đối và không thể phá hủy. Những hi vọng, những nỗi sợ hãi, những lời câu nguyện không thể mong ước để chúng không tồn tại nữa; nhưng giới tinh hoa của các nhà chuyên môn có thể định hướng chúng và kiểm soát chúng ở mức độ nào đó. Nhiệm vụ của những nhà chuyên môn ấy là điều chỉnh các thực thể nhân bản theo những sức mạnh ấy và phát triển trong họ một niềm tin không thể lay chuyển được vào một trật tự mới và lòng trung thành không hề thắc mắc với nó, niềm tin và lòng trung thành ấy sẽ neo đậu vào cái trật tự mới đó một cách an toàn cho mãi mãi. Do đó, những môn học mang tính kĩ xảo hướng dẫn các sức mạnh tự nhiên và điều chỉnh con người theo trật tự mới, phải giữ vị trí ưu trội hơn những mưu cầu nhân bản - triết học, lịch sử, nghệ thuật. Những mưu cầu như thế nhiều nhất cũng chỉ phục vụ cho việc chống đỡ và tô điểm thêm cho cái cấu trúc tổ chức mới. Nhà duy vật luận ngây thơ của Turgenev, nhân vật trong tiểu thuyết Cha và con của ông, nhà khoa học “theo chủ nghĩa hư vô” Bazarov, cuối cùng cũng đi đến niềm tin của riêng mình, giống như Saint-Simon và Comte - người đi theo ông tẻ nhạt hơn, [Bazarov] luôn luôn tin chắc rằng anh ta hẳn có niềm tin, nhưng vì những lí do rất khác với những lí do mà một thế kỉ trước đó có vẻ như khả tín. Niềm tin của Bazarov dựa trên khẳng định rằng việc mổ xẻ những con ếch là quan trọng hơn thi ca vì nó dẫn đến chân lí, trong khi thi ca của Pushkin không làm được điều đó.

Cái động cơ đang tác động hiện nay có sức tàn phá ghê gớm hơn: giải phẫu học là cao hơn nghệ thuật vì nó không tạo ra những mục đích độc lập của cuộc sống, không đưa ra những trải nghiệm đóng vai trò như tiêu chí độc lập về thiện hay ác, chân hay ngụy, do đó khả dĩ va chạm với tính chính thống, vốn là thứ mà chúng ta đã tạo ra như một thành trì bảo vệ đủ mạnh để giữ gìn cho chúng ta khỏi những nỗi hoài nghi và tuyệt vọng, cũng như mọi nỗi khủng khiếp của tình trạng không thích nghi được. Phải chịu đựng tình trạng không thích nghi ấy theo cách này hay cách kia, về mặt cảm xúc hay trí tuệ, là hình thức của bất ổn. Chẳng thứ gì có tác động chống lại được bất ổn ấy, trừ phi loại bỏ hết những lựa chọn khác nhau, vốn gần như ở trong thế cân bằng với việc lựa chọn giữa chúng, là điều khả dĩ, hay ít nhất cũng có vẻ như khả dĩ.

Tất nhiên, đây là lập trường của vị Đại pháp quan trong tác phẩm Anh em nhà Caramazov của Dostoevsky: ông ta nói rằng cái mà người ta kinh sợ nhất ấy là tự do lựa chọn, ấy là bị bỏ lại đơn độc mò mẫm trong bóng tối tìm đường của mình; và giáo hội, bằng việc lấy đi [gánh nặng] trách nhiệm khỏi bờ vai của họ, đã biến họ thành những kẻ nô lệ tự nguyện, biết ơn và hạnh phúc. Vị Đại pháp quan đại diện cho việc tổ chức cuộc sống tinh thần một cách giáo điều; Bazarov đại diện cho phía đối lập về lí thuyết của nó - tự do tra vấn về khoa học, đối diện với những sự thật “khắc nghiệt”, chấp nhận chân lí, dù chân lí có tàn nhẫn hay gây xáo trộn. Do trớ trêu của lịch sử (mà Dostoevsky đã không nhìn thấy trước) họ đã lập một thỏa ước với nhau, họ là đồng minh, và ngày nay thường khó mà tách biệt. Con lừa của Buridan, người ta kể với chúng ta thế, không thể chọn lựa hai bó cỏ khô để cách xa như nhau, bị đói mà chết. Thoát khỏi số phận ấy chỉ có một phương thuốc, đó là mù quáng tuân phục và tin tưởng. Dù cho nơi trú ẩn có là một đức tin tôn giáo mang tính giáo điều hay là một niềm tin mang tính giáo điều vào khoa học xã hội hay tự nhiên, thì cũng chẳng khác nhau mấy: vì nếu không có tuân phục và tin tưởng như thế thì cũng không có được tin cậy và lòng hi vọng, không có được hình thức cuộc sống đầy lạc quan, “mang tính xây dựng”, “mang tính khẳng định”. Sự việc những môn đệ của các vị lần đầu tiên để lộ thái độ sùng bái thần tượng-ý tưởng đông cứng lại thành những định chế mang tính đàn áp - Fourier, Feuerbach và Marx - lại chính là những kẻ ủng hộ mạnh mẽ nhất cho những hình thức mới của việc “vật thể hóa” và “phi nhân tính hóa”, quả thật là trớ trêu của lịch sử.

Nguồn: Tất định luận và tự do lựa chọn (Liberty, Nhà xuất bản Oxford University Press, 2002) của Isaiah Berlin, do dịch giả Nguyễn Văn Trọng dịch một cách đầy đủ và mạch lạc

Dịch giả:
Nguyễn Văn Trọng