![[Nhập môn chủ nghĩa tự do cổ điển] Chương 8 - Kinh tế học của chủ nghĩa tự do cổ điển](http://thitruongtudo.vn/upload/01_bai_viet/k25007.8_(1).png)
[Nhập môn chủ nghĩa tự do cổ điển] Chương 8 - Kinh tế học của chủ nghĩa tự do cổ điển
TRẬT TỰ TỰ PHÁT CỦA THỊ TRƯỜNG
Bên cạnh tự do xã hội và chính trị, những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển cũng ủng hộ tự do kinh tế. Họ tin rằng mọi người nên được tự do phát minh, sáng tạo, tiết kiệm, tích lũy tài sản và trao đổi tự nguyện với người khác.
Họ cũng tin rằng tự do kinh tế là cách tốt nhất để tạo ra sự thịnh vượng chung. Bởi vì tự do kinh tế cho phép con người tự điều chỉnh theo nhu cầu của nhau và hợp tác vì lợi ích chung – từ đó tạo ra và lan tỏa giá trị.
Những quy tắc hình thành nên trật tự tự phát đặc biệt này bao gồm quyền sở hữu tài sản, hợp đồng, trung thực và công lý. Những yếu tố này cùng nhau tạo nên trật tự kinh tế với quy mô và mức độ phức tạp vượt quá khả năng hiểu biết của bất kỳ cơ quan điều phối nào – trật tự bao trùm toàn thế giới, rộng lớn và phức tạp đến mức không thể nào nắm bắt được một cách trọn vẹn.
"PHÉP MÀU" TỰ PHÁT CỦA GIÁ CẢ
Điều giúp các hoạt động kinh tế của hàng triệu người luôn được điều chỉnh một cách trơn tru là cái mà Hayek gọi là “phép màu” của hệ thống giá cả. Chúng ta không phát minh ra hệ thống này – nó xuất hiện một cách tự phát, nhưng lại thúc đẩy việc tạo ra giá trị và lan tỏa sự thịnh vượng trong toàn thể cộng đồng nhân loại.
Giá cả đơn giản là mức mà tại đó người ta sẵn sàng trao đổi một thứ lấy một thứ khác. Thông thường, chúng được biểu thị bằng tiền – chỉ vì tiền đã xuất hiện như một loại hàng hóa tiện dụng, có thể trao đổi lấy mọi thứ khác. Như Milton Friedman từng nói, tiền giúp những người thợ cắt tóc đang đói không phải vất vả đi tìm một người thợ làm bánh đang cần cắt tóc – làm cho việc trao đổi trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn rất nhiều.
Lưu ý rằng giá cả thể hiện giá trị. Giá trị, cũng như vẻ đẹp, nằm trong tâm trí của người cảm nhận – và mỗi người lại định giá cùng một thứ theo những cách khác nhau. Đó chính là lý do tại sao họ trao đổi. Người thợ cắt tóc đói coi ổ bánh mì có giá trị lớn hơn số tiền mà người thợ làm bánh đòi hỏi, trong khi người thợ làm bánh lại coi số tiền ấy có giá trị lớn hơn ổ bánh mì. Dù chỉ một mức giá được trao đổi, mỗi bên đều có cách định giá riêng – và đều cho rằng mình được lợi từ giao dịch đó.
Giá cả như một hệ thống truyền tin
Tuy nhiên, giá cả cũng phản ánh tình trạng khan hiếm. Giá cao có thể cho thấy rằng ở đâu đó, nhu cầu về một mặt hàng đang vượt quá nguồn cung – khiến người tiêu dùng sẵn sàng trả nhiều tiền hơn. Mức giá cao này khuyến khích các nhà cung cấp đáp ứng nhu cầu bằng cách tăng sản lượng, nhằm tận dụng cơ hội thu được lợi nhuận lớn hơn. Tương tự, giá giảm cho thấy nhu cầu yếu, và các nhà cung cấp nên giảm sản xuất. Theo cách này, giá cả cho thấy nguồn lực nên được phân bổ ở đâu để tạo ra giá trị lớn nhất, đồng thời điều hướng chúng khỏi những mục đích sử dụng kém hiệu quả và bị đánh giá thấp hơn.
Những điều chỉnh có lợi như thế lan rộng từ thị trường này sang thị trường khác. Giả sử, theo ví dụ của Hayek, các nhà sản xuất phát hiện ra công dụng mới của thiếc. Họ sẽ bắt đầu gia tăng nhu cầu đối với thiếc và sẵn sàng trả giá cao hơn để có được nó. Mức giá tăng này sẽ thúc đẩy các công ty khai thác tăng sản lượng thiếc và các nhà phân phối cung ứng thêm. Đồng thời, những người sử dụng thiếc hiện tại sẽ bắt đầu tìm kiếm các vật liệu thay thế rẻ tiền hơn. Điều đó sẽ làm tăng giá của các vật liệu thay thế – khiến người dùng của những chất thay thế đó tiếp tục tìm kiếm các phương án thay thế khác. Một chuỗi điều chỉnh dây chuyền lan tỏa, như những gợn sóng trên mặt ao – tất cả là nhờ cái mà Hayek gọi là “hệ thống truyền tin khổng lồ” của giá cả, liên tục cho người ta biết nên dồn công sức và nguồn lực vào đâu để tạo ra nhiều giá trị nhất.
THỊ TRƯỜNG KHÔNG CẦN MỆNH LỆNH
Trái với các sơ đồ ‘cân bằng’ trong sách giáo khoa - gợi ý rằng thị trường luôn duy trì trạng thái ổn định, những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển xem thị trường như một tiến trình năng động – giống như một dòng suối trên núi, không ngừng chuyển động và không bao giờ cố định tại một điểm. Thay vì tưởng tượng “nền kinh tế” như một hệ thống cơ học trừu tượng, họ coi các hiện tượng thị trường là kết quả không được lập kế hoạch và không thể dự đoán – nảy sinh từ quá trình điều chỉnh liên tục, lẫn nhau, giữa hàng triệu người – mỗi người đều có những mục tiêu và giá trị riêng.
Trật tự kinh tế tự phát này, giống như các trật tự tự phát khác, là kết quả của những quy tắc hành vi có thể tiên liệu được giữa các cá nhân tạo nên nó. Nó được thúc đẩy bởi tư lợi và lợi nhuận, nhưng được điều tiết bởi các yếu tố như cạnh tranh, hợp đồng, quyền sở hữu và công lý – những nguyên tắc mà những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển tin rằng nhà nước phải bảo vệ, nhằm duy trì trật tự thị trường hoạt động một cách hiệu quả và mang lại lợi ích cho xã hội.
LUẬT LỆ VÀ QUYỀN SỞ HỮU
Quyền sở hữu là nền tảng cho sự vận hành của trật tự kinh tế có lợi này. Khi quyền sở hữu được bảo đảm, con người có thể tự do trao đổi tài sản của mình với những người đánh giá chúng cao hơn – đem lại lợi ích cho cả hai bên. Sâu xa hơn, quyền sở hữu vững chắc cho phép mỗi người chuyên tâm sản xuất những gì họ làm tốt nhất, và trao đổi với người khác để nhận lấy những gì người kia làm tốt hơn. Sự chuyên môn hóa này – tức phân công lao động – giúp toàn xã hội trở nên hiệu quả hơn hẳn so với việc mỗi người cố gắng tự mình làm tất cả một cách vụng về và thiếu hiệu quả.
Quyền sở hữu vững chắc cũng cho phép con người tích lũy vốn – đầu tư vào công cụ và thiết bị giúp họ sản xuất nhiều hơn, nhanh hơn và chất lượng hơn. Đồng thời, quyền sở hữu giúp họ chống lại sự bóc lột từ phía đa số chính trị; thực vậy, quyền sở hữu cung cấp cho mỗi người nguồn lực để đứng lên trước những chính phủ can thiệp quá mức hoặc lạm quyền.
Luật lệ về quyền sở hữu
Quyền sở hữu cho phép con người nắm giữ và sử dụng tài sản, ngăn người khác sử dụng nó, thu lợi từ tài sản đó (ví dụ: cho thuê), cũng như chuyển nhượng tài sản cho người khác thông qua việc mua bán hoặc tặng cho. Những quyền này được thực thi thông qua hệ thống tư pháp.
Tuy nhiên, để quyền sở hữu được coi là hợp pháp, tài sản đó phải được thủ đắc một cách tự nguyện, chứ không phải bằng cưỡng ép. Tài sản có thể được tiếp nhận thông qua giao dịch hoặc tặng cho. Hoặc có thể bằng cách chiếm hữu những thứ không ai sở hữu hay mong muốn – chẳng hạn một vùng đất hoang – một hành vi không gây tổn hại cho ai, ngay cả khi người chủ mới tìm ra cách khai thác có lợi.
Tài sản không chỉ bao gồm đất đai, nhà cửa hay động sản, mà còn bao gồm cả những tài sản vô hình phức tạp như cổ phiếu, trái phiếu, hoặc sở hữu trí tuệ như thiết kế được cấp bằng sáng chế và âm nhạc có bản quyền – và cả quyền con người đối với chính cuộc sống và tự do của mình. Tài sản có thể thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức, nhà nước, hoặc không thuộc về ai (ví dụ: các ngư trường trên biển). Tuy vậy, những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển tin rằng tư nhân thường quản lý tài sản hiệu quả hơn nhà nước, và việc không ai sở hữu dễ dẫn đến “bi kịch của tài sản chung” – khi tài nguyên bị khai thác quá mức do không có người chịu trách nhiệm và được hưởng lợi ích của chủ sở hữu trong việc bảo tồn chúng.
Luật lệ về tài sản tuy có thể phức tạp, nhưng chính chúng cho phép vô số con người hợp tác với nhau một cách hòa bình, thông qua chuyên môn hóa và trao đổi tự nguyện. Chúng đã phát triển theo thời gian chính vì tạo điều kiện cho hình thức hợp tác mang lại lợi ích chung trở thành khả thi.
Khi con người có quyền sở hữu rõ ràng và được bảo vệ, họ có nhiều khả năng hơn trong việc gìn giữ và đầu tư vào tài sản của mình, cũng như duy trì việc sử dụng tài sản đó một cách hiệu quả. Điều đó hiển nhiên mang lại lợi ích cho người sở hữu – nhưng đồng thời cũng đem lại lợi ích cho cả xã hội. Vì khi thành quả của khoản đầu tư đó được đem ra trao đổi, quá trình trao đổi sẽ thúc đẩy chuyên môn hóa, nâng cao năng suất và lan tỏa giá trị. Trái lại, ở những quốc gia bị chiến tranh tàn phá hoặc nơi luật pháp không được thực thi, người nông dân không có lý do gì để gieo trồng và chăm sóc mùa màng – vì họ biết chúng sẽ sớm bị cướp phá hoặc bị bọn trộm cướp hay binh sỹ phá nát.
LUẬN CỨ ỦNG HỘ TỰ DO KINH TẾ
Khác với các phương pháp tiếp cận kinh tế truyền thống, những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển không xây dựng bất kỳ mô hình tổng thể nào để lý giải các hiện tượng kinh tế. Với họ, các hiện tượng như giá cả là kết quả không thể dự đoán được của quá trình điều chỉnh lẫn nhau đầy phức tạp giữa hàng triệu cá nhân. Nhưng điều đó không có nghĩa là các hiện tượng ấy diễn ra một cách ngẫu nhiên hay vô lý. Trái lại, các tiến trình thị trường chứa đựng một kho tàng “trí tuệ” đã được tích lũy qua nhiều thế hệ “thử và sai”.
Thông tin mang tính cá nhân và phân tán
Thật ra, trong quá trình vận hành có nhiều trí tuệ và tính toán hơn bất kỳ nền kinh tế nào được thiết kế và hoạch định một cách tập trung, bởi vì trật tự kinh tế tự do được tiếp sức bởi một khối lượng thông tin khổng lồ – và có liên quan trực tiếp hơn.
Hàng triệu người đều có hiểu biết sâu sát hơn hẳn về hoàn cảnh của chính họ, về những giá trị họ theo đuổi, cũng như về ưu tiên của khách hàng và nhà cung cấp – không một cơ quan hoạch định kinh tế ở xa nào có thể nắm bắt.
Thậm chí, các nhà hoạch định cũng không thể thu thập được những thông tin đó. Không chỉ vì quy mô quá lớn, tính phân tán và tính cục bộ của chúng, mà còn vì những thông tin ấy vốn mang tính cá nhân. Kỹ năng, kinh nghiệm, cảm quan thị trường, trực giác về nhu cầu của khách hàng – đây là những tri thức sống còn thúc đẩy nền kinh tế, nhưng không thể truyền tải tới trung ương. Chúng ta nên sản xuất dầu hay rượu? Đây không phải là vấn đề của những phép toán cơ học. Lý do duy nhất khiến con người lao vào sản xuất là để tiêu dùng – mà nhu cầu tiêu dùng lại bắt nguồn từ cảm xúc và giá trị – không thể cộng trừ, mang tính chủ quan sâu sắc, và thay đổi từng khoảnh khắc, theo những yếu tố không thể lường trước.
Thế nhưng, trật tự kinh tế tự phát không phải là không có kế hoạch. Trái lại, đó là kết quả của vô vàn quá trình lập kế hoạch liên tục – của hàng triệu người, mỗi người đều đang sử dụng số kiến thức riêng của mình, phân tán, cục bộ và mang tính cá nhân – để dự đoán nhu cầu của người khác, và lên kế hoạch sử dụng nguồn lực sao cho thỏa mãn được những nhu cầu đó.
Cạnh tranh
Tự do kinh tế phát huy hiệu quả là vì, khi không có cưỡng ép, cách duy nhất để thúc đẩy lợi ích cá nhân là phục vụ nhu cầu và lợi ích của người khác. Những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển coi cạnh tranh cởi mở là động lực then chốt cho điều này: khi người tiêu dùng có nhiều lựa chọn về nhà cung cấp và sản phẩm, thì các nhà sản xuất sẽ buộc phải đáp ứng nhu cầu của họ một cách tiết kiệm và hiệu quả nhất có thể. Cạnh tranh thực sự không giống như mô hình “hoàn hảo” vô cảm trong sách giáo khoa, với các nhà cung cấp, sản phẩm và người tiêu dùng hoàn toàn giống nhau. Nó là quá trình sinh động và mang tính nhân văn, các nhà sản xuất khác nhau nỗ lực phân biệt sản phẩm của mình nhằm thu hút những khách hàng khác nhau, vốn có vô vàn sở thích và nhu cầu riêng biệt.
Chính những “khiếm khuyết” này là yếu tố tạo nên sức sống của thị trường – thúc đẩy đổi mới, nâng cao hiệu quả và cải tiến không ngừng. Sự khan hiếm và những nhu cầu chưa được đáp ứng – thể hiện qua việc giá cả tăng – sẽ thúc đẩy nhà sản xuất tham gia để lấp đầy khoảng trống đó. Ngược lại, tình trạng dư thừa sẽ báo hiệu cho họ rằng nguồn lực đang bị lãng phí. Còn chính sự phong phú và đa dạng của hàng hóa trên thị trường cho phép đáp ứng được những thị hiếu khác biệt – thậm chí trái ngược nhau – của người tiêu dùng.
Tiện ích công cộng
Nền kinh tế tự do có khả năng dung hòa những con người với hệ giá trị khác nhau. Người mua và người bán có thể tự do hợp tác với nhau chính vì họ khác nhau trong cách định giá một món hàng hay dịch vụ cụ thể. Thông qua trung gian là tiền, ta thậm chí có thể giao thương với những người ở bên kia địa cầu – những người có hệ giá trị, tôn giáo, đạo đức hay thế giới quan hoàn toàn khác biệt. Và có thể lập luận rằng: chính sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những cộng đồng có quan điểm đa dạng như vậy là lực lượng mạnh mẽ nhất thúc đẩy hòa bình trong lịch sử nhân loại.
Dù động lực của cá nhân là lợi ích riêng, thì thông qua quyền sở hữu, chuyên môn hóa, thị trường và trao đổi, lợi ích đó lại được chuyển hóa thành lợi ích chung. Sản phẩm được tạo ra với chi phí thấp hơn; người tiêu dùng được phục vụ tốt hơn nhờ áp lực nâng cao chất lượng và giảm giá; tài sản mới được sinh ra và giá trị gia tăng; nhu cầu được thỏa mãn; lựa chọn được mở rộng; còn sự đa dạng và tính cá nhân của con người được tôn vinh.
Và ngay cả khi con người hành động vì lòng nhân ái, thì họ vẫn có cùng lợi ích trong việc duy trì hệ thống ấy – bởi nó cho phép họ tối đa hóa giá trị những gì họ có thể sáng tạo và chia sẻ với tha nhân.
NHỮNG TÁC ĐỘNG GÂY BẤT ỔN TỪ CHÍNH PHỦ
Tự do kinh tế giữ vai trò thiết yếu trong đời sống chúng ta – không chỉ vì phần lớn thời gian thức trong ngày ta dành cho hoạt động kinh tế, mà còn vì nó là nền tảng của các quyền tự do xã hội và chính trị. Quyền tự do ngôn luận chẳng thể bảo đảm nếu những người cầm quyền kiểm soát báo chí, truyền hình, phát thanh và truyền thông trực tuyến. Quyền tự do lập hội cũng bị đe dọa nếu chính quyền nắm giữ toàn bộ các hội trường công cộng. Và chúng ta khó lòng tận hưởng thành quả lao động của chính mình nếu nhà nước quản lý văn phòng và nhà máy. Do đó, những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển coi tự do kinh tế và sở hữu tư nhân như một bức tường thành thiết yếu nhằm chống lại quyền lực vượt mức của nhà nước.
Khi các quốc gia như Anh và Mỹ trở nên thịnh vượng, chính phủ của họ còn nhỏ gọn. Ngày nay, hầu hết các nước đều có bộ máy công quyền cồng kềnh, đòi hỏi thuế khóa cao để duy trì. Những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển coi đó là xâm phạm quyền sở hữu tài sản. Họ thừa nhận rằng thuế ở mức vừa phải có thể là việc không tránh khỏi nhằm duy trì những chức năng thiết yếu như quốc phòng và tư pháp. Nhưng thuế khoá cao lại làm suy giảm động lực làm việc và tiết kiệm, kìm hãm sức sáng tạo của thị trường, và chuyển nguồn lực ra khỏi những mục đích có giá trị cao sang những ưu tiên do các thế lực chính trị – vốn không hẳn đại diện cho công chúng – quyết định.
Tương tự, một số quy định có thể cần thiết nhằm duy trì tính tự do của thị trường – như bảo đảm cạnh tranh công bằng hay ngăn chặn bóc lột – nhưng nếu bị lạm dụng, các quy định ấy sẽ hạn chế những thỏa thuận tự nguyện và làm giảm giá trị mà thị trường tạo ra. Trên thực tế, nhiều quy định được ban hành để phục vụ lợi ích chính trị hoặc phe nhóm, chứ không vì lợi ích chung.
Do đó, những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển kết luận rằng, những hành động can thiệp của chính phủ vào đời sống kinh tế thường mang lại hậu quả tai hại. Vì thuế không được lòng dân, các chính phủ đi vay – tức là chi tiêu trước bằng tiền của thế hệ mai sau mà không có sự đồng thuận của họ. Họ để cho đồng tiền mất giá nhằm dễ dàng trả nợ bằng tiền đã giảm giá trị; nhưng hệ quả là lạm phát, làm cho hệ thống giá cả trở nên rối loạn, tín hiệu về thay đổi giá tương đối bị nhấn chìm giữa làn sóng tăng giá chung, khiến người dân khó nhận ra đâu là nơi đáng để dồn công sức và nguồn lực. Thêm vào đó, các chính phủ thường bị cám dỗ thao túng tiền tệ và lãi suất nhằm tạo ra những vụ bùng nổ kinh tế giả tạo – nhưng những hành động can thiệp trái với quy luật thị trường ấy cuối cùng chỉ dẫn tới khủng hoảng, thất nghiệp và suy thoái. Vì thế, những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển mong muốn loại bỏ tận gốc những hành động can thiệp mang tính phá hoại như thế.
Y tế, giáo dục và phúc lợi xã hội mà không cần nhà nước
Những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển cũng hoài nghi về vai trò của chính phủ trong các lĩnh vực như y tế, giáo dục và phúc lợi xã hội – vốn chiếm phần lớn ngân sách của các quốc gia đã phát triển.
Ví dụ, phúc lợi xã hội được thiết kế nhằm xóa đói giảm nghèo, nhưng lại có thể gây hiệu ứng ngược, làm lệch cán cân giữa thất nghiệp (được trợ cấp) và việc làm (bị đánh thuế). Hầu hết các nhà tư tưởng của chủ nghĩa tự do cổ điển đều ủng hộ việc nhà nước bảo đảm một mức tối thiểu về phúc lợi xã hội; tuy nhiên, họ tin rằng sự hỗ trợ ấy nên được thực hiện thông qua các cơ chế thị trường. Họ đề xuất rằng mỗi người nên tự tham gia bảo hiểm thất nghiệp, bệnh tật hoặc tàn tật; trong khi các tổ chức từ thiện – được tiếp thêm sinh lực khi nhà nước rút lui – sẽ hỗ trợ những trường hợp khó khăn, hoặc nhà nước chỉ đóng vai trò chi trả phí bảo hiểm cho những người không đủ khả năng. Cách làm này, theo họ, sẽ ít lãng phí hơn hẳn, đồng thời tạo ra động lực tích cực – thay vì những động lực lệch lạc như trong các hệ thống phúc lợi hiện nay, vốn thường tạo ra sự lệ thuộc ở cả người thụ hưởng lẫn bộ máy hành chính vận hành hệ thống.
Lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cũng thường do nhà nước trực tiếp quản lý hoặc kiểm soát chặt chẽ, khiến người dân không có lựa chọn nào về nhà cung cấp dịch vụ hay đơn vị bảo hiểm. Nhưng nếu cạnh tranh hoạt động tốt ở các thị trường khác, thì tại sao lại không thể áp dụng trong ngành y? Theo luận cứ của chủ ghĩa tự do cổ điển, cạnh tranh trong lĩnh vực y tế sẽ giúp giảm chi phí, nâng cao chất lượng – và người nghèo, những người hiện đang không thể chi trả hoặc tiếp cận dịch vụ, chính là đối tượng hưởng lợi nhiều nhất. Bảo hiểm y tế thực sự cạnh tranh còn giúp mỗi người ý thức rõ hơn về cái giá phải trả của lối sống thiếu lành mạnh – mà không cần đến các mệnh lệnh từ nhà nước.
Giáo dục cũng thường là một hình thức độc quyền của nhà nước, khiến các nhà cung cấp khác – và các ý tưởng thay thế – khó có chỗ đứng, điều này là nguy hiểm trong xã hội tự do đích thực. Vì vậy, những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển kêu gọi đưa cạnh tranh vào giáo dục – sẽ có lợi nhất cho những người nghèo đang bị mắc kẹt trong các “trường học tụt hậu”. Một số người như John Stuart Mill tin rằng giáo dục cơ bản vẫn nên bắt buộc; nhưng số khác cho rằng đó là việc làm không cần thiết, vì học hành luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu của các bậc cha mẹ. Trong những trường hợp đặc biệt, các tổ chức từ thiện lại một lần nữa có thể đóng vai trò hỗ trợ.
THƯƠNG MẠI VÀ CHỦ NGHĨA BẢO HỘ
Những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển cho rằng thương mại quốc tế đáng lẽ phải tự do y như thương mại trong nước. Khi đó, mỗi quốc gia có thể chuyên môn hóa vào lĩnh vực thế mạnh của mình, đồng thời người tiêu dùng được thụ hưởng hàng hóa đa dạng từ khắp nơi trên thế giới. Về mặt lịch sử, những nền kinh tế cởi mở với thương mại—chẳng hạn như Hong Kong— có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất; và việc mở cửa thị trường với Trung Quốc, Ấn Độ… cũng đã đưa hàng tỷ người ra khỏi cảnh nghèo khổ cùng cực.
Theo quan điểm tự do cổ điển, thương mại quốc tế không chỉ đem lại lợi ích kinh tế mà còn lan tỏa tinh thần hợp tác, khoan dung và trao đổi ý tưởng giữa các dân tộc. Thế nhưng, vì động cơ chính trị, không ít quốc gia vẫn áp dụng hạn ngạch nhập khẩu và đánh thuế nhập khẩu để bảo vệ sản xuất trong nước. Việc này làm suy giảm lợi ích mà các doanh nghiệp và người tiêu dùng có thể thu được: lựa chọn bị thu hẹp, ít chuyên môn hóa hơn, tài nguyên sử dụng không hiệu quả và giá trị chung giảm sút. Hệ quả lâu dài còn là các biện pháp trả đũa, chiến tranh thương mại và gia tăng căng thẳng quốc tế—và tất cả chỉ vì chính phủ can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh tế tự do.
Nguồn: Eamonn Butler (2015). Classical Liberalism – A Primer. The Institute of Economic Affairs. Phạm Nguyên Trường dịch.