Chủ nghĩa tư bản và tự do: Độc quyền và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và người lao động (Phần 10)

Chủ nghĩa tư bản và tự do: Độc quyền và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và người lao động (Phần 10)

(Tiếp theo Phần 9)

CHƯƠNG VIII: ĐỘC QUYỀN VÀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP VÀ NGƯỜI LAO ĐỘNG

Cạnh tranh có hai nghĩa rất khác nhau. Trong câu chuyện thường ngày, cạnh tranh có nghĩa là sự ganh đua cá nhân, trong đó một cá nhân tìm cách vượt qua đối thủ cạnh tranh của anh ta. Trong thế giới kinh tế, cạnh tranh có nghĩa gần như ngược lại. Không có sự ganh đua cá nhân trong một thị trường cạnh tranh. Và ở đó, cũng không có sự so đo hơn thua cá nhân. Trong một thị trường tự do, người nông dân trồng lúa mì không có cảm giác rằng anh ta đang ganh đua với, hoặc cảm thấy bị đe dọa bởi, người hàng xóm của anh ta, người mà trên thực tế là đối thủ cạnh tranh của anh ta. Bản chất của một thị trường cạnh tranh là ở đặc tính phi cá nhân của nó. Theo đó, không có một người tham gia nào có thể quyết định luật chơi cụ thể, vốn dĩ quy định cách những người tham gia khác tiếp cận hàng hóa hoặc công ăn việc làm. Tất cả các mức giá được thị trường xác lập, và không có cá nhân nào có thể tự tạo ra một tác động đáng kể lên mức giá, dù rằng toàn bộ các bên tham gia có thể cùng nhau xác định mức giá thị trường, thông qua sự tác động cộng hưởng từ các hành động riêng biệt của họ.

Trạng thái độc quyền tồn tại khi một cá nhân hoặc một doanh nghiệp cụ thể có đầy đủ quyền lực kiểm soát đối với một sản phẩm hoặc một dịch vụ nhất định, từ đó nắm quyền đáng kể trong việc quyết định luật chơi cụ thể, quy định cách những cá nhân khác tiếp cận hàng hóa hay dịch vụ đó. Ở một mức độ nào đó, khái niệm độc quyền có nghĩa gần sát với khái niệm cạnh tranh theo nghĩa đời thường, do sản phẩm/dịch vụ có liên quan đến sự ganh đua cá nhân.

Sự tồn tại của độc quyền làm phát sinh ra hai lớp vấn đề cho một xã hội tự do. Thứ nhất, sự tồn tại của độc quyền có nghĩa là có sự áp chế lên giao dịch trao đổi tự nguyện, thông qua việc bên mua có ít sự lựa chọn hơn khi muốn xác định nhà cung cấp để giao dịch. Thứ hai, sự tồn tại của độc quyền làm nảy sinh vấn đề được gọi là "trách nhiệm xã hội"của bên độc quyền. Người tham gia trong một thị trường cạnh tranh, thường không có quyền lực đáng kể để thay đổi các điều khoản trao đổi. Ở đó, anh ta hầu như là vô hình khi đóng vai trò như một cá thể riêng biệt. Vì vậy, rất khó để đòi hỏi anh ta có bất kỳ "trách nhiệm xã hội" nào, ngoại trừ những hình thức trách nhiệm giống như mọi công dân khác, như chấp hành luật pháp của vùng và sống theo điều mà anh ta tin tưởng. Trong khi đó, bên độc quyền lại hữu hình và có quyền lực. Vậy nên, sẽ dễ dàng để đòi hỏi rằng bên độc quyền nên sử dụng quyền lực của mình không chỉ để thúc đẩy các lợi ích riêng tư, mà còn để thúc đẩy những mục tiêu mà xã hội mong muốn. Tuy nhiên, việc ứng dụng rộng khắp của học thuyết này sẽ phá hủy một xã hội tự do.

Tất nhiên, trạng thái cạnh tranh là một điều kiện lý tưởng, giống như một đường thẳng Euclide hoặc một điểm Euclide. Không ai từng nhìn thấy một đường thẳng Euclid, đường mà có bề rộng và chiều sâu bằng không. Tuy nhiên, tất cả chúng ta đều thấy đường thẳng này hữu ích, khi xét một khối hình Euclide (Euclidean volume), chẳng hạn sợi dây thừng của chuyên viên đo đạc nhà đất, như là một đường thẳng Euclide. Tương tự cách hiểu như vậy, chẳng có thứ gì được coi là trạng thái cạnh tranh "thuần khiết". Mỗi nhà sản xuất đều có một số ảnh hưởng nhất định, tuy là khá nhỏ, tới mức giá sản phẩm mà nhà sản xuất đó tạo ra. Vấn đề quan trọng cho sự nhận thức và cho việc hoạch định chính sách, đó là: liệu sự ảnh hưởng này là đáng kể hay có thể lờ đi được, giống như việc các chuyên viên đo đạc nhà đất có thể lờ đi độ dày của thứ mà anh ta gọi là "đường thẳng Euclid". Câu trả lời, tất nhiên, phải phụ thuộc vào từng vấn đề cụ thể. Nhưng theo những nghiên cứu của tôi về các hoạt động kinh tế ở Mỹ, tôi đã ngày càng cảm thấy ấn tượng trước quy mô (độ phủ rộng) của các lớp vấn đề và các ngành công nghiệp mà ở đó việc chúng ta coi nền kinh tế như thể là nền kinh tế cạnh tranh là có thể chấp nhận được để giải quyết chúng.

Các vấn đề nảy sinh từ sự tồn tại của độc quyền đều là các vấn đề mang tính kỹ thuật, bao trùm trong lĩnh vực nghiên cứu mà tôi không có chuyên môn. Do đó, nội dung của chương này không quá chuyên sâu, giống như một bản khảo sát nhanh về một số vấn đề đại cương, đó là: phạm vi của độc quyền, các nguồn gốc của độc quyền, các chính sách thích hợp của nhà nước, và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và người lao động.

PHẠM VI CỦA ĐỘC QUYỀN

Có ba lĩnh vực quan trọng của độc quyền, đòi hỏi sự nghiên cứu riêng biệt, bao gồm: độc quyền về ngành, độc quyền về người lao động, và độc quyền được tạo ra bởi chính phủ. 

1. Độc quyền về ngành

Một thực tế quan trọng nhất khi bàn về độc quyền doanh nghiệp, là tính chất không đáng kể của nó, xét một cách tương đối dưới góc độ tổng thể nền kinh tế. Có khoảng bốn triệu doanh nghiệp hoạt động riêng rẽ tại Mỹ. Trong khi đó, có khoảng bốn trăm ngàn doanh nghiệp mới được thành lập mỗi năm, và một con số ít hơn cho số lượng các doanh nghiệp giải thể mỗi năm. Và gần một phần năm dân số lao động là người làm nghề tự do hay tự kinh doanh (self-employed). Bên cạnh đó, trong hầu hết các ngành công nghiệp mà người ta có thể kể tên, đều có những những gã khổng lồ, và những chú tý hon đứng bên cạnh. 

Xét bên ngoài những ấn tượng chung chung đó, rất khó để trích dẫn ra được một thước đo khách quan và thỏa đáng về mức độ độc quyền và mức độ cạnh tranh. Nguyên nhân chính là một điều đã được được nhấn mạnh trước đó, rằng: những khái niệm, được sử dụng trong lý thuyết kinh tế, là những tình huống lý tưởng, được thiết kế để phân tích các vấn đề cá thể, hơn là để mô tả tình huống trên thực tế. Hệ quả là, không thể đưa ra kết luận rõ ràng liệu một doanh nghiệp cụ thể hoặc một ngành công nghiệp cụ thể là độc quyền hay cạnh tranh. Khó khăn trong việc gán ý nghĩa chính xác cho các thuật ngữ này dẫn đến nhiều hiểu nhầm. Cùng một từ ngữ nhưng sẽ được hiểu theo nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào nền tảng thông tin về tình trạng (mức độ) cạnh tranh đang được đánh giá. Có một ví dụ rất ấn tượng, đó là việc, ở một mức độ nào đó, nghiên cứu viên Mỹ mô tả những cấu trúc tổ chức có tính độc quyền, nhưng nghiên cứu viên châu Âu lại cho rằng những cấu trúc đó có tính cạnh tranh cao. Kết quả là, những nghiên cứu viên châu Âu khi diễn giải văn khoa và những cuộc thảo luận tại Mỹ theo cách hiểu cạnh tranh và độc quyền sử dụng tại Châu Âu có xu hướng tin rằng tình trạng độc quyền tại Mỹ đang ở mức độ cao, lớn hơn nhiều tình trạng thực tế đang diễn ra.

Một số nghiên cứu, đặc biệt là các nghiên cứu của G. Warren Nutter và George J. Stigler, đã cố gắng phân loại các ngành công nghiệp thành các phân lớp mang các đặc tính khác nhau, bao gồm: ngành công nghiệp có tính độc quyền, ngành công nghiệp có tính cạnh tranh (ít hay nhiều), và ngành công nghiệp được chính phủ nắm quyền điều hành hoặc giám sát. Các nghiên cứu này cũng đã cố gắng theo dõi những thay đổi theo thời gian trong các lớp phân ngành đó1. G. Warren Nutter và George J. Stigler cùng nhau kết luận rằng: bắt đầu từ thời điểm năm 1939, khoảng một phần tư tổng số ngành công nghiệp trong nền kinh tế có thể được xem là ngành công nghiệp được chính phủ nắm quyền điều hành hoặc giám sát. Trong số ba phần tư còn lại, tối đa là một phần tư tổng số ngành công nghiệp, và có lẽ tối thiểu 15%, có thể được xem là độc quyền; như vậy, ít nhất ba phần tư tổng số ngành công nghiệp và có lẽ tối đa 85%, có thể được xem là cạnh tranh. Hiển nhiên là, các ngành công nghiệp do chính phủ nắm quyền điều hành hoặc giám sát đã phát triển mạnh mẽ trong vòng, chính xác hoặc xấp xỉ, nửa thế kỷ qua. Mặt khác, trong khu vực kinh tế tư nhân, dường như không có bất kỳ xu hướng nào chứng tỏ phạm vi độc quyền đã tăng lên, và rất có thể là phạm vi độc quyền đã giảm xuống.

Có một quan điểm mà tôi vẫn đang nghi ngờ dù rằng nó được coi là nổi trội và phổ biến. Quan điểm đó phát biểu rằng thứ nhất, độc quyền ngành đóng vai trò quan trọng hơn rất nhiều so với những gì mà những ước tính ở trên đưa ra, và thứ hai, độc quyền ngành đã phát triển một cách ổn định theo thời gian. Một nguyên do giải thích cho quan điểm sai lầm này là xu hướng nhầm lẫn giữa quy mô tuyệt đối và quy mô tương đối. Khi nền kinh tế phát triển, các doanh nghiệp trở nên lớn hơn về quy mô tuyệt đối. Điều này thường được viện dẫn để hàm ý rằng doanh nghiệp chiếm một lượng thị phần lớn hơn, trong khi đó, quy mô toàn thị trường có thể là đã phát triển với một tốc độ nhanh hơn. Nguyên do thứ hai là vì trạng thái độc quyền thường thu hút truyền thông nhiều hơn (lên mặt báo, hoặc các bản tin thời sự nhiều hơn). Và điều này dẫn đến việc trạng thái độc quyền thu hút được sự quan tâm và chú ý nhiều hơn trạng thái cạnh tranh. Nếu từng cá nhân được yêu cầu liệt kê các ngành công nghiệp trọng yếu tại Mỹ, thì gần như tất cả sẽ nhắc đến ngành công nghiệp sản xuất ô tô, trong khi đó, ít người sẽ nhắc tới ngành thương mại bán buôn. Tuy vậy, ngành thương mại bán buôn lại có quy mô gấp đôi so với quy mô của ngành công nghiệp sản xuất ô tô. Ở đây, ngành thương mại bán buôn có tính cạnh tranh cao, do đó ít thu hút được sự chú ý. Theo đó, rất ít người có thể nêu tên bất kỳ doanh nghiệp hàng đầu nào trong ngành thương mại bán buôn, dù rằng vẫn có một vài doanh nghiệp rất lớn, xét theo quy mô tuyệt đối. Trong khi đó, ngành công nghiệp sản xuất ô tô, tuy ở một số khía cạnh cũng có tính cạnh tranh cao, nhưng có số lượng doanh nghiệp trong ngành ít hơn nhiều, và chắc chắn là gần với tình trạng độc quyền hơn. Tất cả mọi người đều có thể đọc tên các công ty sản xuất xe ô tô hàng đầu. Có kể thêm một ví dụ nổi bật khác, đó là ngành dịch vụ chăm sóc gia đình (domestic service). Đây là ngành công nghiệp có quy mô lớn hơn rất rất nhiều so với ngành công nghiệp bưu chính viễn thông. Nguyên do thứ ba, có sự thiên vị nói chung và có xu hướng cường điệu hóa tầm quan trọng của cái lớn so với cái nhỏ, trong đó điểm được nêu ra ở trên chỉ là một biểu hiện cụ thể. Nguyên do cuối cùng, xã hội của chúng ta được gán cho đặc trưng là xã hội công nghiệp. Điều này dẫn đến việc quá chú trọng vào lĩnh vực sản xuất chế biến của nền kinh tế, một lĩnh vực mà chỉ chiếm khoảng một phần tư sản lượng hoặc công ăn việc làm trong nền kinh tế. Nhưng tình trạng độc quyền trong lĩnh vực sản xuất thì lại có tính phổ biến hơn rất nhiều so với các lĩnh vực khác của nền kinh tế.

Việc đánh giá quá vị thế của tình trạng độc quyền gắn liền với việc đánh giá quá cao mức độ quan trọng của những thay đổi công nghệ thúc đẩy tình trạng độc quyền so với những thay đổi công nghệ giúp mở rộng tình trạng cạnh tranh (với những lý do tương tự). Ví dụ, tình trạng phổ biến rộng khắp mô hình sản xuất hàng loạt đã nhận được sự quan tâm cực lớn của cộng đồng. Những thành tựu phát triển trong giao thông vận tải và thông tin liên lạc đã thúc đẩy cạnh tranh qua việc làm giảm vị thế của những thị trường khu vực hoặc địa phương, cùng như qua việc mở rộng phạm vi mà sự cạnh tranh có thể diễn ra; tuy nhiên, chúng ít nhận được sự chú ý từ cộng đồng. Trong khi đó, mức độ tập trung ngành ngày một lớn của ngành công nghiệp ô tô lại ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm của dư luận. Bên cạnh đó, sự tăng trưởng của ngành công nghiệp vận tải, một ngành mà tự nó đã làm giảm đi sự phụ thuộc vào các tuyến đường sắt lớn, chỉ được nói đến qua loa. Điều tương tự cũng xảy ra với sự suy giảm mức độ tập trung ngành đối với ngành công nghiệp thép. 

2. Độc quyền lao động

Cũng có một xu hướng tương tự như trên, khi nhiều người đánh giá quá cao tầm quan trọng của độc quyền lao động. Điển hình là việc công đoàn chỉ chiếm khoảng một phần tư tổng số lao động nhưng chúng ta lại thường đánh giá quá mức tầm quan trọng của công đoàn trong việc xác lập cơ cấu tiền lương. Trong khi đó tồn tại nhiều công đoàn hoạt động cực kỳ kém hiệu quả. Và, ngay cả những công đoàn hùng mạnh và có uy quyền lớn cũng chỉ có ảnh hưởng hạn chế lên cơ cấu tiền lương. Xu hướng cường điệu hóa tầm quan trọng của độc quyền quá rõ ràng đối với lao động, hơn cả so với ngành. Với một tổ chức công đoàn, bất kỳ sự tăng lương nào đều sẽ phải thông qua công đoàn, cho dù việc tăng lương có thể không phải là do sự tác động từ phía công đoàn lên phía công ty. Tiền lương của nhân viên phục vụ (servants) trong nước đã tăng lên rất cao trong những năm gần đây. Nếu giả dụ có tồn tại một công đoàn cho nhân viên phục vụ trong nước, thì mức tăng ắt sẽ phải thông qua công đoàn, và mức tăng lương đó hẳn sẽ được quy cho tác động của công đoàn. 

Điều này không hàm ý rằng các công đoàn không có vai trò quan trọng. Cũng giống như độc quyền doanh nghiệp, chúng đóng một vai trò quan trọng trong việc khiến cho nhiều mức lương trở nên khác biệt so với những những mức lương lẽ ra được hình thành theo cơ chế thị trường. Và vì thế việc đánh giá thấp vai trò của công đoàn cũng dẫn đến sai lầm tương tự như việc đánh giá quá cao tầm quan trọng của công đoàn. Tôi đã từng ước tính sơ bộ rằng việc công đoàn chiếm khoảng 10 đến 15 phần trăm tổng số lao động đã khiến mức lương của các thành viên công đoàn tăng lên thêm khoảng 10 đến 15 phần trăm. Điều này có nghĩa là khoảng 85 hoặc 90 phần trăm lực lượng lao động đã có mức lương bị giảm đi khoảng 4 phần trăm.2 Kể từ khi tôi thực hiện những ước tính này, nhiều nghiên cứu chi tiết hơn đã được những đồng nghiệp khác thực hiện. Ấn tượng của tôi đối với các nghiên cứu này là các kết quả của chúng cho ra những con số ở cấp độ tương đồng nhau.

Nếu công đoàn nâng cao mức lương cho một nghề nghiệp hoặc trong cả ngành công nghiệp cụ thể, họ tất sẽ làm cho số lượng việc làm sẵn có cho nghề nghiệp hoặc trong cả ngành công nghiệp đó giảm đi so với số lượng đáng lẽ được tạo ra – giống như việc đẩy giá cao hơn sẽ làm lượng mua thấp hơn vậy. Hệ quả là, số lượng người tìm kiếm các công việc khác sẽ tăng lên, qua đó gây sức ép buộc mức lương của các ngành nghề khác giảm xuống. Bởi vì những nhóm công đoàn nhìn chung được coi là những nhóm mạnh nhất trong các nhóm lao động được trả lương cao, cho nên những nhóm lao động có lương cao sẽ lại được trả mức lương cao hơn nữa, với cái giá phải trả là nhóm lao động có lương thấp sẽ bị hạ thấp hơn nữa. Do đó, công đoàn gây hại đến tất cả mọi người nói chung ở phạm vị rộng lớn, đồng thời gây hại đến toàn thể những người lao động nói riêng bằng sự bóp méo cách sử dụng nguồn lực lao động. Bên cạnh đó, công đoàn cũng làm tăng tính bất bình đẳng giữa các mức thu nhập trong tầng lớp lao động, bằng cách làm giảm đi số lượng các cơ hội hiện hữu cho những người lao động có điều kiện khó khăn nhất. 

Ở một khía cạnh khác, có sự khác biệt quan trọng giữa độc quyền lao động và độc quyền doanh nghiệp. Về độc quyền doanh nghiệp, trong suốt nửa thế kỷ qua, có vẻ như vị thế của nó không hề đi lên, trong khi đó, chắc chắn đã có sự gia tăng vai trò của độc quyền lao động. Các công đoàn đã nâng đáng kể vị thế của mình trong suốt Thế chiến I, và suy giảm vị thế trong những năm hai mươi và những năm đầu của thập niên ba mươi. Sau đó, vị thế của họ có bước nhảy vọt trong giai đoạn Chính sách Kinh tế mới (New Deal). Họ đã củng cố thành quả này trong và sau Thế chiến II. Nhưng gần đây hơn, họ chỉ còn cầm cự (giữ nguyên được) vị thế của mình, hoặc thậm chí tình hình còn tệ hơn do có lúc nó bị suy giảm. Sự suy giảm vị thế của các công đoàn không phản ánh sự suy giảm kinh tế trong ngành công nghiệp hoặc ngành nghề cụ thể, mà phản ánh sự suy giảm tầm quan trọng của những ngành công nghiệp hoặc ngành nghề mà trong đó tổ chức công đoàn được coi là mạnh, trong khi đó có sự gia tăng tầm quan trọng của những ngành công nghiệp hoặc ngành nghề mà trong đó tổ chức công đoàn được coi là yếu.

Sự khác biệt mà tôi đang phác họa giữa độc quyền lao động và độc quyền doanh nghiệp là rất sắc nét ở một khía cạnh khác. Trong một số chừng mực nhất định, công đoàn còn đóng vai trò như là một phương tiện để áp đặt độc quyền trong việc bán sản phẩm.Ví dụ rõ ràng nhất là trong ngành than. Đạo luật Than Guffey là một nỗ lực nhằm cung cấp sự hỗ trợ về mặt pháp lý cho liên minh các-ten (cartel)5 của các các nhà khai thác than trong việc áp đặt mức giá than. Vào giữa những năm 1930, khi Đạo luật Than Guffey được tuyên bố là trái với hiến pháp, John L. Lewis và Liên hiệp các công nhân khai thác mỏ (United Mine Workers) đã có những hành động chống đối. Bằng cách kêu gọi đình công hay tạm dừng làm việc bất cứ khi nào sản lượng than đã khai thác ở mức quá lớn, có thể khiến cho giá than giảm, Lewis đã kiểm soát đầu ra, và nhờ đó, đã kiểm soát được giá cả, với sự hợp tác ngầm của toàn ngành. Lợi ích có được từ liên minh các-ten này (bao gồm các nhà khai thác than) được phân chia giữa những chủ mỏ và những người thợ mỏ. Lợi ích cho những người thợ mỏ nằm dưới hình thức mức lương cao hơn, và tất nhiên điều này cũng dẫn đến việc sẽ có ít thợ mỏ được tuyển dụng hơn. Do đó, chỉ có những người thợ mỏ giữ được công việc là được chia sẻ những lợi ích đến từ liên minh các-ten, và thậm chí họ nhận được một miếng bánh lớn trong tổng lợi ích dưới hình thức có nhiều thời gian được nghỉ ngơi hơn. Khả năng của công đoàn làm được việc này xuất phát từ đặc quyền của họ trong việc miễn nhiễm với Đạo luật chống độc quyền Sherman (tức là không nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Đạo luật chống độc quyền Sherman). Nhiều tổ chức công đoàn khác cũng đã lợi dụng sự miễn nhiễm này, và họ được xem như là các tổ chức kinh doanh các dịch vụ độc quyền ngành, bằng cách giúp thiết lập các liên minh các-ten trong ngành công nghiệp đó (caterlizing), thay vì được xem như là các tổ chức vì người lao động. Công đoàn Teamster có lẽ là một ví dụ đáng chú ý nhất. 

3. Độc quyền trực tiếp bởi nhà nước và độc quyền được nhà nước chống lưng

Tại Mỹ, độc quyền trực tiếp bởi nhà nước trong khâu sản xuất hàng hóa để kinh doanh không phải là hiện tượng quá phổ biến. Những ví dụ nổi bật về hình thức độc quyền của nhà nước là: hệ thống bưu điện, hệ thống sản xuất điện, như bởi TVA và các nhà máy sản xuất điện quốc doanh, hoạt động cung ứng các dịch vụ đường cao tốc với việc thu phí gián tiếp qua thuế xăng dầu hoặc thu phí trực tiếp qua lệ phí cầu đường, các nhà máy nước sạch hoặc sản phẩm tương tự của chính quyền đô thị. Bên cạnh đó, với việc hiện chúng ta đang chi ngân sách quá lớn cho quốc phòng, vũ trụ, và nghiên cứu, chính quyền liên bang, về bản chất, đã trở thành khách hàng duy nhất mua các sản phẩm của rất nhiều doanh nghiệp, thậm chí của toàn bộ ngành công nghiệp. Điều này đặt ra vấn đề rất nghiêm trọng đối với việc duy trì một xã hội tự do, nhưng đấy không phải là là loại vấn đề đáng phải xem xét nhất dưới tiêu đề "độc quyền".

Hình thức thành lập, hỗ trợ và thực thi các thỏa thuận trong liên minh các-ten và các cơ chế độc quyền giữa các nhà sản xuất tư nhân thông qua chính quyền đã phát triển nhanh hơn nhiều, và hiện tại có tầm ảnh hưởng hơn nhiều so với hình hình độc quyền trực tiếp của nhà nước. Ủy ban Thương mại Liên bang (Interstate Commerce Commission) là một ví dụ điển hình đáng phải nêu ra đầu tiên, với việc nó đã mở rộng phạm vi từ đường sắt cho tới vận tải đường bộ và các phương tiện vận tải khác. Thêm vào đó, chắc chắn rằng, chương trình nông nghiệp là một ví dụ tiếp theo mà ai cũng biết đến. Chương trình này, về bản chất, là một liên minh các-ten được chính phủ chấp thuận. Những ví dụ khác như Ủy ban Truyền thông Liên bang (Federal Communications Commissions), với việc nó kiểm soát đài phát thanh và truyền hình; Ủy ban Năng lượng Liên bang (Federal Power Commission) với việc kiểm soát quá trình vận chuyển dầu mỏ và khí gas trong giao thương giữa các tiểu bang; Hội đồng Quản trị Hàng không Dân dụng (Civil Aeronautics Board) với việc kiểm soát các hãng hàng không; và việc Cục Dự trữ Liên bang (Federal Reserve Board) áp đặt các mức trần lãi suất mà các ngân hàng có thể trả trên các khoản tiền gửi có kỳ hạn (như tiền gửi tiết kiệm) cũng như pháp lệnh cấm trả lãi trên khoản tiền gửi không kỳ hạn.

Những ví dụ trên đều ở cấp độ liên bang. Ngoài ra, đã có sự gia tăng cấp số nhân về hình thức độc quyền nhà nước kiểu này ở cấp độ tiểu bang và địa phương. Ủy ban Đường sắt Texas (Texas Railroad Commission), mà cho đến nay theo như tôi biết, không có liên quan gì đến đường sắt, lại ban hành và thực thi các quy định giới hạn sản lượng tại các giếng dầu, bằng cách hạn chế số ngày giếng có thể được khai thác. Ủy ban có thể làm vậy trên danh nghĩa bảo tồn tài nguyên, nhưng trên thực tế là nhằm kiểm soát giá dầu. Gần đây hơn, Ủy ban đã nhận được hỗ trợ rất đáng kể từ điều luật quy định hạn ngạch nhập khẩu dầu mỏ liên bang. Việc giữ giếng dầu trong trạng thái nhàn rỗi (không được khai thác) trong hầu hết thời gian để giữ giá, theo tôi, là một loại bảo hộ giống hệt như việc trả thù lao cho công nhân đốt than khi làm việc với động cơ diesel vì sự nhàn rỗi của họ. Tuy nhiên, một số đại diện của cộng đồng doanh nghiệp, những người lớn tiếng nhất khi lên án hình thức bảo hộ lao động, coi đó như là một hành động vi phạm chế độ kinh doanh tự do - đặc biệt là của chính các doanh nghiệp trong ngành dầu mỏ - lại im lặng cứ như là bị điếc trước sự bảo hộ đối với dầu mỏ. 

Các quy định cấp giấy phép, được thảo luận trong chương tiếp theo, là một ví dụ khác về hình thức độc quyền được tạo ra và được hỗ trợ bởi chính quyền trên cấp độ tiểu bang. Việc đề ra các quy định hạn chế số lượng xe taxi được đưa vào hoạt động là một ví dụ minh họa điển hình cho các quy định hạn chế tương tự ở cấp độ địa phương. Tại New York, xuất hiện một vật thể kim loại hình tròn (medallion) được gắn vào mặt trước của xe taxi, trao cho người chủ xe lái taxi một chứng nhận cho quyền vận hành một chiếc taxi độc lập. Vật thể kim loại hình tròn này được bán với giá vào khoảng 20,000 đô la đến 25,000 đô la ở New York, và khoảng 15,000 đô la ở Philadelphia. Một ví dụ khác, ở cấp độ địa phương, là việc ban hành các hệ thống quy chuẩn về xây dựng. Và chúng, nhìn bề ngoài, như được thiết kế để phục vụ cho an ninh công cộng, nhưng trên thực tế thường nằm trong sự kiểm soát của các tổ chức công đoàn xây dựng địa phương hoặc các hiệp hội của các nhà thầu tư nhân. Các hạn chế như thế này nhiều không đếm xuể, và được đặt ra để chế định cho một loạt các hoạt động khác nhau, trên các cấp độ thành phố và các cấp độ tiểu bang. Tất cả tạo nên những rào cản tùy tiện, ngăn cản các cá nhân muốn tham gia vào các giao dịch trao đổi tự nguyện với những người khác. Chúng cũng đồng thời hạn chế sự tự do và gia tăng sự lãng phí nguồn lực.

Có một hình thức độc quyền được tạo ra bởi chính phủ, mà rất khác biệt về mặt nguyên tắc, so với những hình thức độc quyền mà chúng ta đã xét đến. Đó là việc cấp bằng sáng chế cho các nhà phát minh, và bản quyền tác giả cho các tác giả. Chúng khác biệt, bởi vì chúng có thể được nhìn nhận, một cách công bằng, như là việc định nghĩa lại các quyền sở hữu tài sản (property rights) cho các tác giả. Theo nghĩa đen, nếu tôi có quyền sở hữu tài sản đối với một mảnh đất cụ thể, tôi có thể bị nhiều người nói rằng tôi có sự độc quyền với mảnh đất được chính phủ xác định ranh giới và bảo vệ. Đối với các sáng chế và các sách báo xuất bản, một vấn đề phát sinh, đó là liệu có nên thiết lập mới một quyền sở hữu tài sản tương tự như ví dụ về mảnh đất hay không. Vấn đề này là một phần của nhu cầu chung trong việc sử dụng chính phủ để thiết lập những gì được và những gì không được coi là tài sản.

Đối với bằng sáng chế và bản quyền tác giả, chúng rõ ràng là trường hợp rất điển hình trong việc thiết lập các quyền sở hữu tài sản. Nếu không được cấp bằng sáng chế, nhà phát minh sẽ gặp khó khăn hoặc không thể thu lại phần thù lao cho những đóng góp vào sản lượng đầu ra từ phát minh của anh ta. Nghĩa là, anh ta sẽ mang lại lợi ích cho người khác mà không được trả thù lao. Do đó, anh ta sẽ không có động lực để cống hiến thời gian và nỗ lực cần thiết để tạo ra sáng chế. Điều tương tự cũng áp dụng cho các nhà văn.  

Song song với những điều trên, hình thức độc quyền này cũng gây ra những thiệt hại đi kèm. Thiệt hại đầu tiên, đó là việc có rất nhiều "phát minh" không thể được cấp bằng sáng chế. Chẳng hạn, “người phát minh” ra siêu thị đã mang lại lợi ích to lớn cho cộng đồng, nhưng anh ta không thể thu phí từ họ. Chừng nào người ta còn phải dùng cùng loại năng lực để tạo ra các loại phát minh khác nhau thì sự tồn tại của bằng sáng chế sẽ làm nảy sinh hiện tượng các nhà phát minh sẽ có xu hướng dồn nguồn lực sang thực hiện loại phát minh được cấp bằng sáng chế. Một loại thiệt hại khác là, những bằng sáng chế ít giá trị, hoặc những bằng sáng chế mà có thể có tính pháp lý không rõ ràng nếu xảy ra tranh chấp tại tòa án, thường được sử dụng như một phương thức để duy trì các thỏa thuận thông đồng cá nhân, những thỏa thuận này nếu trong những điều kiện khác sẽ khó khăn hơn hoặc là sẽ bất khả thi để duy trì.

Trên đây là những ý kiến ​​rất hời hợt về một vấn đề quan trọng nhưng rất khó giải đáp thỏa đáng. Những bình luận này không nhằm đề xuất bất kỳ giải pháp cụ thể nào mà chỉ nhằm chỉ ra, thứ nhất, tại sao các bằng sáng chế và bản quyền tác giả lại nằm ở một khía cạnh khác biệt so với các hình thức độc quyền được chính phủ chống lưng khác, và thứ hai, để minh họa cho những vấn đề chính sách xã hội mà chúng tạo ra. Ở đây có một điều rõ ràng rằng các điều kiện cụ thể gắn liền với bằng sáng chế và bản quyền - ví dụ như bảo hộ bằng sáng chế trong vòng mười bảy năm chứ không phải là một quãng thời gian khác - không gặp phải vấn đề gì về mặt nguyên lý cả. Thay vào đó là vấn đề cân nhắc thiệt hơn trong thực tiễn. Bản thân tôi có xu hướng tin rằng một khoảng thời gian bảo hộ bằng sáng chế ngắn hơn thì có lẽ thích hợp hơn. Nhưng đây chỉ là đánh giá ngẫu hứng của tôi cho một chủ đề mà đã có nhiều nghiên cứu rất chi tiết và vẫn cần nhiều công trình nghiên cứu hơn nữa. Do đó, lời đánh giá này không thực sự chắc chắn cho lắm. 

CÁC NGUỒN GỐC CỦA ĐỘC QUYỀN

Có ba nguồn gốc chính của độc quyền: Các yếu tố "kỹ thuật công nghệ", sự hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp của chính quyền, và những thỏa thuận thông đồng tư nhân.

1. Các yếu tố kỹ thuật công nghệ

Như đã chỉ ra trong chương 2, độc quyền phát triển một phần là bởi những yếu tố kỹ thuật công nghệ khiến cho việc chỉ có một doanh nghiệp thay vì nhiều doanh nghiệp trong ngành giúp nó trở nên hiệu quả hơn hoặc kinh tế hơn. Hệ thống điện thoại viễn thông, hệ thống cung cấp nước, và những hệ thống tương tự trong một cộng đồng dân cư riêng lẻ là những ví dụ tiêu biểu, rõ ràng nhất. Thật không may khi chúng ta không có một cơ chế quản lý tốt đối với hình thức độc quyền mang tính kỹ thuật. Cụ thể, chúng ta chỉ có thể lựa chọn 1 trong 3 cơ chế vận hành, đều được coi là tai hại cả, như sau: độc quyền tư nhân không có kiểm soát, độc quyền tư nhân do nhà nước điều tiết, và nhà nước trực tiếp vận hành.

Có vẻ sẽ là bất khả thi trong việc xác định cơ chế quản lý nào trong các cơ chế quản lý tai hại ở trên được coi là phù hợp hơn so với những cơ chế quản lý còn lại. Như đã được chỉ ra trong chương 2, cơ chế nhà nước điều tiết và cơ chế nhà nước trực tiếp vận hành đều có những điểm bất lợi lớn đến nỗi khó có thể khắc phục. Hệ quả là, tôi nghiêng về chủ trương chọn cơ chế ít tai hại nhất, đó là độc quyền tư nhân không có kiểm soát, ở bất cứ nơi nào mà nó có thể được chấp nhận. Những biến động liên tục có khả năng cao sẽ làm suy yếu cơ chế này, và ít ra thì những biến động này cũng có cơ hội để phát huy tác dụng. Và, thậm chí trong ngắn hạn, khách hàng thường có nhiều lựa chọn thay thế (về nhà cung cấp hơn) hơn so với thoạt nhìn, vì vậy các doanh nghiệp tư nhân chỉ có một khoảng không gian tương đối hẹp để đảm bảo được lợi nhuận khi đặt giá bán cao hơn chi phí. Hơn nữa, như chúng ta đã thấy, các cơ quan điều tiết thường có xu hướng bị kiểm soát bởi các nhà sản xuất, và vì thế, giá cả khi bị điều tiết có thể không thấp hơn so với giá cả khi không bị điều tiết.

May mắn thay, các lĩnh vực được cho là có các yếu tố kỹ thuật công nghệ tạo ra độc quyền không có nhiều. Chúng không thực sự là mối đe dọa đối với việc bảo tồn một nền kinh tế tự do, miễn là không có xu hướng xuất hiện bàn tay điều tiết của chính quyền được biện hộ dựa trên yếu tố này để mở rộng đến những ngành không được nó biện minh.

2. Sự hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp của Chính quyền

Rất có thể nguồn gốc quan trọng nhất dẫn đến quyền lực độc quyền là chính sách hỗ trợ của chính quyền, bao gồm hỗ trợ trực tiếp và hỗ trợ gián tiếp. Rất nhiều ví dụ về chính sách hỗ trợ trực tiếp hợp lý của chính quyền đã được trích dẫn ở trên. Bên cạnh đó, còn có các chính sách hỗ trợ gián tiếp cho độc quyền, bao gồm những biện pháp của chính quyền mà ngay từ đầu không nhằm mục đích hỗ trợ độc quyền, tức là phục vụ cho các mục đích khác. Tuy nhiên, những mục đích khác này lại gây ra những tác dụng đáng kể ngoài ý muốn,trợ giúp cho các doanh nghiệp hiện có bằng cách áp đặt những rào cản lên các đối thủ cạnh tranh tiềm năng. Ba ví dụ có lẽ rõ ràng nhất, đó là các hình thức thuế quan, chính sách pháp luật về thuế, và việc thực thi pháp luật cùng với các điều luật có liên quan đến tranh chấp lao động.

Các hình thức thuế quan dĩ nhiên được thiết lập chủ yếu là để "bảo vệ" các ngành công nghiệp trong nước. Nói cách khác, các hình thức thuế quan áp đặt các rào cản bất lợi lên những đối thủ cạnh tranh tiềm năng. Chúng luôn luôn can thiệp vào quyền tự do của các cá nhân khi tham gia vào các giao dịch trao đổi mang tính tự nguyện. Sau tất cả, người theo chủ nghĩa tự do lấy cá nhân, chứ không phải quốc gia hay công dân của một quốc gia cụ thể, làm đơn vị cơ sở cho các đánh giá của anh ta. Do đó, anh ta cho rằng nếu hai công dân Mỹ và Thụy Sĩ bị ngăn cản trong việc hoàn thành một giao dịch đôi bên cùng có lợi do có sự áp đặt từ các hình thức thuế quan, thì đó là hành vi xâm phạm quyền tự do, tương tự như trường hợp hai công dân Mỹ bị ngăn trở giao dịch. Thuế quan không nhất thiết tạo ra trạng thái độc quyền. Nếu qui mô thị trường cho ngành công nghiệp được bảo hộ đủ lớn, và các điều kiện kỹ thuật cho phép nhiều công ty cùng tồn tại và hoạt động, thì vẫn có thể tồn tại sự cạnh tranh hiệu quả giữa các công ty nội địa trong ngành công nghiệp được bảo hộ. Điển hình cho hiện tượng này là ngành dệt may tại Mỹ. Tuy nhiên, rõ ràng là, thuế quan tạo ra điều kiện thuận lợi để phát triển trạng thái độc quyền. Nếu chỉ có vài doanh nghiệp, chúng sẽ dễ dàng thông đồng với nhau để ấn định mức giá cố định so với khi có nhiều doanh nghiệp. Và, nhìn chung, các doanh nghiệp trong cùng một quốc gia sẽ dễ dàng bắt tay thông đồng với nhau hơn so với các doanh nghiệp đến từ các quốc gia khác nhau. Nước Anh được bảo vệ bởi chính sách thương mại tự do trước sự tác động từ tình trạng độc quyền phổ biến trong suốt thế kỷ 19 và giai đoạn đầu của thế kỉ 20, mặc dù thị trường trong nước có kích thước tương đối nhỏ và nhiều công ty lại có quy mô lớn. Độc quyền đã trở nên trầm trọng hơn rất nhiều ở nước Anh kể từ khi chính sách thương mại tự do bị bãi bỏ lần đầu tiên sau Thế chiến thứ nhất, và sau đó bị bãi bỏ ở quy mô rộng hơn vào những năm đầu của thập niên 1930.

So với hình thức thuế quan, chính sách pháp luật về thuế gây ra những ảnh hưởng, tuy gián tiếp hơn, nhưng không hề kém cạnh. Hạt nhân chính ở đây là mối liên kết giữa thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân, bao gồm cả việc đưa các khoản thặng dư vốn (captail gain) vào diện chịu thuế thu nhập cá nhân. Chúng ta hãy giả sử một công ty kiếm được một khoản thu nhập 1 triệu đô la tính sau thuế thu nhập doanh nghiệp. Nếu công ty trả cả 1 triệu đô la này cho các cổ đông của nó, dưới hình thức cổ tức, thì khoản thu nhập này sẽ bị tính vào thu nhập chịu thuế của họ. Giả sử họ phải đóng thuế thu nhập cá nhân trung bình là 50 phần trăm mức thu nhập bổ sung này thì sau đó họ chỉ còn dư 500.000 đô la dùng để chi tiêu cho tiêu dùng hoặc để tiết kiệm và đầu tư. Nhưng nếu công ty không trả cổ tức bằng tiền mặt cho các cổ đông của mình, công ty sẽ có cả triệu đô la để tái đầu tư. Việc tái đầu tư này có xu hướng làm tăng giá trị của cổ phiếu. Các cổ đông, những người có lẽ sẽ có được khoản tiết kiệm nếu được phân chia cổ tức, có thể đơn giản là nắm giữ cổ phiếu và trì hoãn nộp các loại thuế cho đến khi bán cổ phiếu ra. Họ, trong trường hợp cũng giống như những người bán cổ phiếu ra sớm hơn để có tiền mặt chi tiêu, sẽ nộp thuế với những tỷ lệ áp trên phần thặng dư vốn thấp hơn những tỷ lệ áp trên khoản thu nhập đều đặn. 

Cấu trúc thuế này khuyến khích việc giữ lại lợi nhuận doanh nghiệp. Ngay cả trong trường hợp lợi tức có thể kiếm được nhờ việc công ty tái đầu tư thấp hơn đáng kể so với lợi tức mà từng cổ đông có thể tự mình kiếm được qua việc đầu tư các khoản tiền cổ tức được chia ra bên ngoài, thì người ta vẫn có thể lựa chọn hình thức tái đầu tư nội bộ vì được giảm trừ thuế thu nhập cá nhân, hay nói cách khác, là một khoản tiết kiệm thuế (tax saving). Điều này dẫn đến một sự lãng phí vốn, khi mà vốn tái đầu tư nội bộ đôi lúc được sử dụng cho những mục đích kém hiệu quả. Đây là một trong những nguyên do chủ yếu của xu hướng đa dạng hóa theo chiều ngang, xảy ra vào thời hậu Thế chiến II, khi các công ty đi tìm kiếm lối ra cho nguồn lợi nhuận kiếm được của họ. Cấu trúc thuế này cũng tạo ra lợi thế tuyệt vời cho các công ty đã có tên tuổi so với các doanh nghiệp mới được thành lập. Các doanh nghiệp đã có tên tuổi có thể hoạt động kém hiệu quả hơn các doanh nghiệp mới được thành lập, tuy nhiên, các cổ đông vẫn có động cơ để đầu tư vào những doanh nghiệp đã có tên tuổi thay vì dùng khoản thu nhập dưới dạng cổ tức để đầu tư vào các doanh nghiệp mới được thành lập thông qua thị trường vốn.

Sự hỗ trợ của chính quyền là nguồn gốc chính yếu dẫn dến độc quyền lao động. Các hình thức hỗ trợ của chính quyền, như là các quy định cấp giấy phép, những hệ thống quy chuẩn xây dựng, và những chính sách tương tự, như đã được thảo luận ở trên, chính là một trong những nguồn gốc của độc quyền lao động. Nguồn thứ hai của độc quyền lao động chính là việc pháp luật cấp những đặc quyền miễn trừ cho các tổ chức công đoàn, chẳng hạn như quyền miễn trừ khỏi luật chống độc quyền, quyền miễn trừ khỏi các quy định hạn chế về trách nhiệm công đoàn, và quyền miễn trừ khỏi việc trình diện trước mặt các phiên tòa đặc biệt, và nhiều quyền miễn trừ tương tự khác. Ngoài ra còn có một nguồn gốc không kém tầm quan trọng, thậm chí còn ảnh hưởng hơn so với hai nguồn gốc trên, đó là việc dư luận chung cũng như việc thi hành pháp luật có xu hướng áp dụng những tiêu chuẩn khác đối với các hành vi trong các vụ tranh chấp về lao động, chứ không phải áp dụng cùng một tiêu chuẩn với các hành vi tương tự nhưng trong những hoàn cảnh khác. Nếu một nhóm người lật đổ xe ô tô, hoặc phá hoại tài sản, trong quá trình thực hiện những hành động cực kỳ tàn ác hay trong các cuộc báo thù mang màu sắc cá nhân, thì không một ai có thể bảo vệ họ tránh khỏi được những hậu quả pháp lý. Nhưng nếu họ thực hiện những hành vi y như vậy trong các vụ tranh chấp về lao động thì họ có thể được xóa tội và miễn trừ hình phạt. Các hoạt động của công đoàn, mà mang tính chất bạo lực thân thể hoặc có tính áp bức, có lẽ đã không xảy ra hay có nguy cơ xảy ra trong tương lai nếu như không có sự chấp thuận ngầm của nhà chức trách. 

3. Sự thông đồng tư nhân

Nguồn cội cuối cùng của độc quyền là những thông đồng tư nhân. Như Adam Smith đã nói, "Những người kinh doanh trong cùng một lĩnh vực rất ít khi gặp nhau, ngay cả gặp với mục đích để vui chơi, giải trí, nhưng một khi gặp gỡ thì cuộc nói chuyện luôn kết thúc với một âm mưu chống lại công chúng, hoặc kết thúc với những thủ thuật khéo léo để tăng giá."3 Do đó, trên thực tế, những thỏa thuận thông đồng như vậy hoặc các thỏa thuận nhóm liên minh chi phối (cartel) không ngừng phát sinh. Tuy nhiên, chúng thường có tính không ổn định, và chỉ diễn ra trong ngắn hạn, trừ khi chúng có thể kêu gọi được sự chống lưng của chính phủ. Việc thành lập các nhóm liên minh chi phối, với mục đích làm cho giá tăng, khiến những người đứng bên ngoài ngành thấy thị trường có tiềm năng lợi nhuận cao hơn và khiến việc gia nhập ngành trở nên hấp dẫn hơn. Hơn nữa, với việc mức giá cao hơn chỉ có thể được thiết lập bởi hành động giới hạn sản lượng của những bên tham gia xuống dưới mức mà họ mong muốn sản xuất tại mức giá ấn định, nên sẽ có một sự cám dỗ với từng bên trong việc tự ý giảm giá để tăng sản lượng. Tất nhiên, mỗi bên đều hy vọng rằng những bên khác sẽ tuân thủ thỏa thuận. Tuy nhiên, chỉ cần một hoặc một vài “kẻ đâm sau lưng” – những người này thực chất mang lại lợi ích cho cộng đồng – là đủ để phá hủy mối liên minh giữa các bên trong nhóm liên minh chi phối. Trong trường hợp không có sự chống lưng của chính phủ để duy trì nhóm liên minh chi phối, thì gần như chắc chắn những “kẻ đâm sau lưng” này sẽ nhanh chóng thành công trong việc làm cho liên minh sụp đổ. 

Vai trò quan trọng của các điều luật chống độc quyền là để kiềm chế các thỏa thuận thông đồng tư nhân giống như vậy. Đóng góp chính của chúng ở khía cạnh này thông qua các vụ truy tố thực tế ít hơn là qua các tác động gián tiếp của chúng. Chúng đã ngăn chặn những phương thức thông đồng hiển nhiên, chẳng hạn những buổi gặp mặt công khai, được sắp xếp từ trước, với mục đích thông đồng cụ thể. Và vì vậy chúng làm cho việc thông đồng trở nên tốn kém hơn. Quan trọng hơn, chúng đã tái khẳng định tư tưởng của thông luật theo đó các hình thức bắt tay nhằm hạn chế giao thương sẽ không có hiệu lực pháp lý tại tòa án. Ở nhiều nước châu Âu, các tòa án sẽ công nhận hiệu lực cùa một thỏa thuận được ký kết bởi một nhóm các doanh nghiệp quy định việc bán hàng chỉ thông qua một đại lý bán hàng có hình thức tổ chức liên minh (joint selling agency) và đảm bảo rằng các doanh nghiệp sẽ bị phạt nếu vi phạm thỏa thuận. Tại Mỹ, một thỏa thuận như vậy sẽ không có hiệu lực pháp lý. Sự khác biệt này là một trong những lý do chính yếu giải thích tại sao các nhóm liên minh chi phối lại ổn định hơn và phổ biến rộng rãi hơn ở các nước châu Âu khi so với Mỹ.

CHÍNH SÁCH THÍCH HỢP CỦA CHÍNH QUYỀN

Công việc cần ưu tiên và cấp thiết nhất trong khuôn khổ chính sách của chính quyền là loại bỏ những biện pháp hỗ trợ trực tiếp cho độc quyền, cho dù là độc quyền doanh nghiệp hay là độc quyền lao động, đồng thời thực thi công bằng các điều khoản của pháp luật về doanh nghiệp và về công đoàn lao động. Cả hai đối tượng này đều phải là đối tượng điều chỉnh của pháp luật về chống độc quyền. Và cả hai phải được điều chỉnh như nhau ở các quy định pháp lý về hành vi phá hoại tài sản và hành vi can thiệp vào các hoạt động riêng tư. 

Sau những biện pháp này, bước quan trọng và có hiệu quả tiếp theo để hướng tới việc giảm sức mạnh độc quyền là một cuộc cải cách sâu rộng đối với chính sách pháp luật về thuế. Thuế [thu nhập] doanh nghiệp cần được bãi bỏ. Nhưng dù loại thuế này này có được loại bỏ hay không thì các công ty cần bị buộc phải báo cáo phần lợi nhuận tạo ra cho các cổ đông cá nhân nhưng không được chia trả dưới hình thức cổ tức. Cụ thể, khi các công ty gửi tấm séc chi trả cổ tức, công ty cũng nên gửi kèm một thông báo rằng: "Ngoài khoản tiền cổ tức ---- cent trên mỗi cổ phiếu, công ty của bạn cũng kiếm được ---- cent trên mỗi cổ phiếu và khoản này được dùng để tái đầu tư ". Các cổ đông cá nhân sau đó sẽ phải báo cáo khoản thu nhập thuộc quyền sở hữu nhưng chưa được phân phối trên tờ khai thuế thu nhập và cổ tức. Các công ty vẫn sẽ được tự do để tái đầu tư nhiều như mong muốn, nhưng họ sẽ không có động lực để làm vậy trừ khi đó là một động lực đúng đắn theo đó tiền lời kiếm được từ việc tái đầu tư nội bộ nhiều hơn tiền lời mà các cổ đông có thể tự kiếm được từ bên ngoài. Chỉ cần một vài biện pháp như vậy sẽ có tác dụng tiếp thêm sức sống cho thị trường vốn, kích thích phát triển doanh nghiệp và thúc đẩy cạnh tranh hiệu quả.

Tất nhiên, chừng nào thuế thu nhập cá nhân còn bị đánh lũy tiến cao như hiện tại thì chừng đó luôn có áp lực mạnh mẽ khiến người ta tìm cách trốn tránh tác động của nó. Hành vi tránh thuế gián tiếp này, cũng như các biện pháp trốn thuế trực tiếp khác, gây ra bởi thuế thu nhập bị đánh lũy tiến quá cao sẽ tạo ra những trở ngại ngăn cản việc sử dụng các nguồn lực của chúng ta một cách hiệu quả. Giải pháp thích hợp là giảm mạnh các mức chịu thuế cao kết hợp với việc loại bỏ các phương cách tránh thuế có trong luật. 

TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP VÀ NGƯỜI LAO ĐỘNG

Có một quan điểm đã nhận được sự đồng thuận rộng rãi, đó là: những người quản lý doanh nghiệp và các lãnh đạo công đoàn phải đặt "trách nhiệm xã hội" lên trên cả mục tiêu phục vụ lợi ích của các cổ đông hoặc các thành viên công đoàn. Quan điểm này thể hiện một quan niệm sai lầm cơ bản về đặc tính và bản chất của một nền kinh tế tự do. Cụ thể, trong nền kinh tế tự do, doanh nghiệp có một và chỉ có một trách nhiệm xã hội, đó là trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực của mình và tham gia vào các hoạt động đã được lên kế hoạch từ trước, để làm cách nào đó gia tăng lợi nhuận miễn là cách thức đó vẫn nằm trong khuôn khổ luật chơi, rằng khi tham gia vào một cuộc cạnh tranh mở và tự do, doanh nghiệp không được lừa đảo hay gian lận. Tương tự như vậy, "trách nhiệm xã hội" của các nhà lãnh đạo công đoàn là để phục vụ lợi ích cho các thành viên công đoàn của họ. Còn lại là trách nhiệm của chúng ta trong việc thiết lập một khuôn khổ pháp luật cho phép các cá nhân theo đuổi lợi ích của chính mình, như trong doạn trích dẫn lại từ Adam Smith: "được dẫn dắt bởi một bàn tay vô hình nhằm thúc đẩy những kết cục không có trước trong chủ định của anh ta. Cũng không phải là là điều luôn luôn tồi tệ cho xã hội, khi kết cục đó không nằm trong phần nào của chủ định đấy. Bằng cách theo đuổi lợi ích của chính mình, anh ta thường xuyên thúc đẩy xã hội theo cách hiệu quả hơn, so với việc anh ta cũng làm điều đó nhưng chỉ với động lực theo đuổi lợi ích không phải cho chính mình, mà cho ý định muốn thúc đẩy xã hội. Tôi chưa bao giờ biết tới những điều tốt đẹp được thực hiện bởi những người hoạt động thương mại chỉ vì muốn tốt cho cộng đồng.” 4

Một vài khuynh hướng có thể làm xói mòn những nền tảng vững chắc xây lên xã hội tự do của chúng ta, chẳng hạn như quan điểm cho rằng người quản lý công ty cần coi trọng việc thực thi trách nhiệm xã hội hơn trách nhiệm kiếm nhiều tiền nhất có thể cho các cổ đông. Đây là một học thuyết đạp đổ những nền tảng cơ bản. Nếu doanh nhân phải có trách nhiệm xã hội thay vì việc tối đa hóa lợi nhuận cho các cổ đông thì làm thế nào họ biết được trách nhiệm đó là gì? Liệu những cá nhân theo đuổi lợi ích cá nhân có thể quyết định đâu là là lợi ích xã hội? Liệu họ có thể quyết định gánh nặng trách nhiệm xã hội đặt lên vai họ hoặc cổ đông của họ đến đâu là hợp lý? Có thể chấp nhận được hay không việc giao phó cho những người hiện đang đảm đương nhiệm vụ trong các doanh nghiệp cụ thể những chức năng công cộng về thuế, về chi tiêu, và về kiểm soát trong khi những người này lại được lựa chọn trong nội bộ công ty? Nếu doanh nhân là công chức nhà nước thay vì là người làm thuê cho các cổ đông, thì trong một nền dân chủ, sớm hay muộn họ cũng sẽ được lựa chọn thông qua các quy trình đại chúng dưới hình thức bầu cử và bổ nhiệm.

Và trước khi điều này xảy ra một thời gian, quyền ra quyết định của những doanh nhân sẽ bị tước đi. Một minh họa rõ nét, đó là việc công ty US Steel hủy bỏ kế hoạch tăng giá thép trong tháng 4 năm 1962 do Tổng thống Kenedy bày tỏ sự tức giận trước công chúng và đưa ra đe dọa trừng phạt ở nhiều mức độ khác nhau, từ việc chống độc quyền cho tới việc kiểm tra các báo cáo thuế của giám đốc điều hành trong ngành thép. Đây là một sự kiện chấn động, phơi bày công khai các thế lực khổng lồ tập trung tại Washington. Chúng ta chợt nhận ra rằng một nhà nước công an trị đã hiện diện đầy đủ như thế nào. Thực tế này cũng minh họa cho luận điểm hiện tại. Nếu giá thép là một quyết định mang tính cộng đồng, như học thuyết về trách nhiệm xã hội tuyên bố, thì hệ quả là nó không còn thuộc về quyết định cá nhân nữa.

Một khía cạnh đặc thù của học thuyết về trách nhiệm xã hội mà ví dụ trên minh họa, và là thứ nổi bật nhất gần đây, đó là trách nhiệm xã hội áp đặt lên doanh nghiệp và người lao động để kéo giá và mức lương xuống thấp nhằm tránh lạm phát. Giả sử tại một thời điểm khi có áp lực tăng giá - tất nhiên xét đến cùng đó là sự phản ánh của việc gia tăng lượng cung tiền – mọi doanh nhân và nhà lãnh đạo công đoàn chấp nhận trách nhiệm xã hội này, và cũng giả sử rằng tất cả các doanh nhân đều có thể thành công trong việc kìm giữ giá cả khỏi tăng lên, vậy thì chúng ta có thể kiểm soát giá cả và tiền lương một cách tự nguyện mà không gây ra lạm phát. Nhưng hệ quả sau đó sẽ là gì? Rõ ràng, đó là sự thiếu hụt sản phẩm, thiếu hụt lao động, xuất hiện thị trường chợ xám6 và thị trường chợ đen. Nếu giá cả không được phép sử dụng để điều tiết lượng hàng hóa và lao động thì phải có một số phương tiện khác để làm điều này. Liệu có thể sử dụng các chế độ phân phối hạn mức (rationing schemes) cho từng cá nhân? Có lẽ các chế độ phân phối hạn mức cá nhân sẽ hiệu quả trong một thời gian ngắn, tại một khu vực nhỏ và không trọng yếu. Nhưng nếu các hàng hóa liên quan là rất nhiều và quan trọng thì tất yếu sẽ gây ra áp lực, và có lẽ đây là loại áp lực không thể cưỡng lại được, đối với chính sách phân phối hạn mức của nhà nước áp đặt lên hàng hóa, đối với chính sách tiền lương của nhà nước, và đối với các biện pháp của nhà nước trong việc phân bổ và phân phối lao động.

Kiểm soát giá cả, dù là hợp pháp hay tự nguyện, nếu được thực thi một cách nghiêm túc, thì rốt cuộc đều hủy hoại hệ thống kinh doanh tự do, và thế vào đó là một hệ thống kiểm soát tập trung. Hơn nữa, chính sách kiểm soát giá cả không hề có tác dụng ngăn ngừa lạm phát. Lịch sử cung cấp nhiều bằng chứng phong phú, cho thấy rằng yếu tố quyết định mức giá cả và tiền lương bình quân là lượng tiền trong nền kinh tế chứ không phải là lòng tham của doanh nghiệp hay của người làm công. Nhiều chính phủ yêu cầu các doanh nghiệp và người lao động phát huy tinh thần tự kiểm soát bởi vì họ bất lực trong việc tự quản lý chính công việc của mình, trong đó bao gồm việc kiểm soát tiền tệ, và cũng bởi vì xu hướng tự nhiên của con người là trốn tránh, đổ trách nhiệm cho người khác.

Một chủ đề trong lĩnh vực trách nhiệm xã hội mà tôi cảm thấy có trách nhiệm và buộc lòng phải đả động đến, bởi nó ảnh hưởng đến lợi ích riêng của cá nhân tôi. Đó là quan điểm cho rằng doanh nghiệp nên quyên góp, hỗ trợ cho các hoạt động từ thiện, và đặc biệt cho các trường đại học. Tuy nhiên, trong một xã hội theo chế độ tự do kinh doanh thì những khoản cho đi đó minh họa cho việc sử dụng không hợp lý ngân quỹ của công ty. 

Công ty là công cụ của các cổ đông sở hữu nó. Nếu công ty quyên góp, ủng hộ từ thiện, nó sẽ ngăn chặn các cổ đông cá nhân trong việc tự quyết định cách thức chi tiêu nguồn quỹ của anh ta. Với thuế doanh nghiệp, cùng với việc có thể khấu trừ các khoản tiền quyên góp, ủng hộ của các cổ đông ra khỏi thu nhập tính thuế, các cổ đông dĩ nhiên có thể mong muốn công ty đại diện quyên góp thay cho họ, vì như thế sẽ cho phép họ có thể quyên góp với số tiền lớn hơn. Giải pháp tốt nhất ở đây chính là bãi bỏ thuế doanh nghiệp. Bởi vì chừng nào còn thuế doanh nghiệp thì chừng đó không tồn tại lý do hợp lý nào biện minh cho việc cho phép khấu trừ các khoản tiền đóng góp cho các tổ chức từ thiện và giáo dục ra khỏi thu nhập tính thuế. Những đóng góp như vậy nên được thực hiện bởi các cá nhân, những người là chủ sở hữu cuối cùng của tài sản trong xã hội chúng ta.

Những người lợi dụng danh nghĩa của chế độ kinh doanh tự do để kêu gọi việc gia tăng khấu trừ các khoản đóng góp của doanh nghiệp như vậy ra khỏi thu nhập tính thuế về cơ bản là đang chống lại quyền lợi của chính họ. Một than phiền thường xuyên đối với doanh nghiệp trong thời hiện đại là cơ chế kiểm soát đã bị phân tách khỏi quyền sở hữu khiến cho công ty trở thành một tổ chức xã hội, vận hành theo luật lệ do chính nó đề ra, với những tay giám đốc điều hành vô trách nhiệm không phục vụ lợi ích cho các cổ đông. Lời buộc tội này là không đúng. Nhưng chiều hướng mà theo đó chính sách hiện tại đang hướng tới, theo đó cho phép các công ty đóng góp cho mục đích từ thiện và cho phép khấu trừ thuế thu nhập, là bước thúc đẩy cuộc ly hôn thực sự giữa quyền sở hữu và quyền kiểm soát, và cũng thúc đẩy quá trình làm yếu đi bản chất và đặc tính cơ bản của xã hội chúng ta. Đây là một bước đi rời xa khỏi chế độ xã hội tự do cá nhân và hướng về phía chế độ xã hội nhà nước cấu kết với doanh nghiệp (corporate state).

(Xem tiếp Phần 11)

Chú thích:

(1) G. Warren Nutter, The Extent of Enterprise Monopoly in the United States, 1899-1939 (Chicago: Chicago University Press, 1951) và George J. Stigler, Five Lectures on Economic Problems (London; Longmans, Green và đồng sự, 1949), trang 46-65.

(2) “Some Comments on the Significance of Labor Unions for Economic Policy”, David McCord Wright (ed.), The Impact of the Union (New York: Harcourt, Brace, 1951), trang 204-34.

(3) The Wealth of Nations (1776), quyển I, ch 10, tiết II (Cannan ed., London, 1930), trang 130.

(4) The Wealth of Nations, quyển IV, Chương 2, trang 421.

(5) Liên minh các-ten (cartel): Liên minh các-ten (Cartel) là khái niệm chỉ một tổ chức các thành viên tự nguyện liên kết theo phương thức cam kết đồng thuận. Các-ten thường sinh ra do một mục tiêu chung là tập hợp các tổ chức và đối tượng cùng ngành nghề để có thể khống chế thị trường bằng quyền lực kinh tế do các thành viên các-ten mang lại. Nguyên tắc của các-ten là đồng thuận và phân chia hợp lý lợi ích kinh tế. Hai yếu tố chính của thị trường mà các-ten thường xuyên tìm cách tác động lên là giá và số lượng. (Chú thích của dịch giả).

(6) Thị trường xám hay chợ xám là thuật ngữ kinh tế chỉ các hoạt động trao đổi hàng hóa một cách hợp pháp nhưng không chính thức, không được ủy quyền và ngoài mong muốn của nhà sản xuất ra các hàng hóa đó hoặc ngoài ý muốn của cơ quan nhà nước điều tiết thị trường (ND).

Nguồn: Milton Friedman, Capitalism and Freedom, The University of Chicago Press, 1962