![[Đại cương về thuế] - Chương 1: Lịch sử của thuế](http://thitruongtudo.vn/upload/01_bai_viet/k250018.1_(1).jpg)
[Đại cương về thuế] - Chương 1: Lịch sử của thuế
DẪN NHẬP
Vai trò của cuốn sách này
Cuốn sách này không đề cập cụ thể đến bất kỳ hệ thống thuế nào, mà tập trung vào ý tưởng chung về thuế. Nó giải thích thuế là gì, tại sao nó tồn tại, lịch sử, mục đích và mục tiêu, tác động của nó đối với các cá nhân và nền kinh tế, các kết quả mang tính xã hội và đạo đức, ai là người nộp thuế, lợi ích của thuế, thiệt hại mà nó gây ra, và làm thế nào để thuế hoạt động hiệu quả hơn.
Cuốn sách không sử dụng thuật ngữ chuyên ngành. Nó hướng đến độc giả phổ thông, những người muốn hiểu vai trò của thuế trong xã hội và những tranh luận xung quanh vấn đề này, cũng như học sinh phổ thông và sinh viên đại học, những người đang tìm quan điểm rộng lớn hơn về thuế so với những thứ họ có thể tìm được trong sách giáo khoa.
Tại sao lại cần cuốn sách này?
Các sách giáo khoa kinh tế học thường đề cập rất ít tới khái niệm thuế. Sách giáo khoa chỉ coi nó như là công cụ để quản lý nền kinh tế, tái phân phối nguồn lực hoặc thay đổi hành vi của người dân (ví dụ: khuyến khích họ giảm thiểu ô nhiễm). Nhưng đây chưa phải là toàn bộ câu chuyện.
Trong cuốn sách Của cải của các quốc gia (The Wealth of Nations), xuất bản năm 1776, nhà kinh tế học tiên phong người Scotland Adam Smith (1723–90) đã xây dựng các nguyên tắc của chính sách thuế khoá tốt là công bằng, chắc chắn, thuận tiện và hiệu quả - những lý tưởng được nhiều người hiện nay chấp nhận (Butler 2007). Nhưng đáng buồn là, hệ thống thuế hiện nay thường không công bằng, bị bóp méo vì mục đích chính trị và thường là gánh nặng đối với những người nghèo nhất. Sự chắc chắn đáng lẽ phải có nghĩa là mọi người biết rõ mình phải đóng bao nhiêu tiền thuế, nhưng sự phức tạp của nhiều hệ thống thuế làm cho điều đó trở thành bất khả thi. Sự tiện lợi là giúp việc đóng thuế trở nên dễ dàng; nhưng một lần nữa, sự phức tạp của thuế thường buộc mọi người phải thuê các chuyên gia với những khoản thù lao rất cao để hướng dẫn họ. Hiệu quả có nghĩa là thuế phải dễ dàng trong hành thu và không làm biến dạng hoặc kìm hãm thương mại, mặc dù một số loại thuế gần như chắc chắn gây ra thiệt hại kinh tế nhiều hơn số tiền thu được.
Mặc dù có những thiếu sót như thế, các cuốn sách giáo khoa vẫn coi thuế là hiển nhiên. Sách giáo khoa coi thuế là nguồn kinh phí cần thiết để cung cấp các dịch vụ công thiết yếu và có lợi. Chúng chủ yếu khám phá hoạt động của thuế dựa chủ yếu trên việc ai là người nộp thuế và ai là người bị ảnh hưởng bởi thuế. Tuy nhiên, sách giáo khoa không giải thích cách thức và lý do hình thành hay bãi bỏ các loại thuế, chính trị ảnh hưởng đến thuế như thế nào, hay ý nghĩa thực sự của thuế đối với dân chúng. Ít khi xuất hiện câu hỏi liệu một số loại thuế có gây ra thiệt hại nhiều hơn lợi ích mà chúng mang lại, loại thuế nào hữu ích nhất hoặc gây thiệt hại nhiều nhất, hoặc liệu có những cách nào khác để tài trợ cho các dịch vụ công hay không. Cũng không có bất kỳ câu hỏi nào về đạo đức của những biện pháp thu thuế và thuế được chi tiêu cho những mục đích nào.
Cuốn sách này trình bày quan điểm rộng lớn hơn rất nhiều, đặt ra những câu hỏi này và nhiều câu hỏi khác để chúng ta có thể đặt thuế và lợi ích của nó vào hoàn cảnh kinh tế và con người. Cuốn sách lập luận rằng thuế thường không đạt được mục tiêu mà người ta đặt ra cho nó. Cuốn sách này khám phá những nguyên tắc giúp xác định một hệ thống thuế tốt hơn và đơn giản hơn, đồng thời xem xét các kỹ thuật khác có thể được sử dụng nhằm tài trợ cho các dịch vụ công với mức thuế thấp hơn.
CHƯƠNG 1. LỊCH SỬ CỦA THUẾ
Chính khách Hoa Kỳ, Benjamin Franklin (1706–90), từng viết: “trên đời này, không có gì chắc chắn ngoài chết và thuế” (mặc dù các học giả thời hiện đại phàn nàn rằng hai thứ này không được sắp xếp đúng thứ tự). Chắc chắn, thuế đã tồn tại từ rất lâu rồi.
Thời cổ đại và trung cổ
Các chính phủ trong suốt chiều dài của lịch sử đã đánh thuế để tài trợ cho việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho người dân (hoặc để duy trì quyền lực của người cai trị sao cho có thể phản ánh và nâng cao địa vị của họ). Và trong phần lớn lịch sử nhân loại, thuế tập trung vào ngành sản xuất chính, cụ thể là nông nghiệp: sản xuất những nhu yếu phẩm mà chúng ta dùng để ăn và uống1.
Ai Cập. Từ hai nghìn tới năm nghìn năm trước, các Pharaoh Ai Cập cổ đại đã thuê hàng ngàn người ghi chép để đánh giá mùa màng nhằm đánh thuế cho chính xác. Ngũ cốc, gia súc, bia và các sản phẩm khác đều bị đánh thuế, trốn thuế bị trừng trị rất nghiêm khắc. Các Pharaoh giữ độc quyền về dầu ăn và cũng đánh thuế: các quan chức vào tận nhà dân và trừng phạt bất kỳ người nào tìm cách trốn thuế bằng cách tái sử dụng dầu ăn.
Trung Quốc. Trung Quốc thời phong kiến là nền kinh tế nông nghiệp và bị đánh thuế chủ yếu trong lĩnh vực này. Các quan chức địa phương được giao nhiệm vụ thu một khoản thuế nhất định - mặc dù họ có toàn quyền quyết định thu như thế nào. Nguồn thu chính là đất đai và nông sản, nhưng trong những giai đoạn khác nhau, có các khoản thuế đánh vào muối, các ngành nghề thủ công, kim loại quý, trà, thuốc lá và các hàng hóa khác. Thuế cung cấp tài chính cho quân đội, các công trình công cộng (trong đó có Vạn Lý Trường Thành) và các chi phí khác của hoàng gia.
Hy Lạp. Phần lớn việc thu thuế ở Hy Lạp cổ đại và cổ điển (700–323 TCN) được giao khoán cho “nông dân thu thuế” – họ đấu thầu hợp đồng của nhà nước để thu thuế. Thuế đánh vào các sản phẩm, trong đó có dầu ô liu, và đánh vào lĩnh vực thương mại (trong đó có thuế suất cao đối với dầu nhập khẩu, được thiết kế nhằm bảo vệ các nhà sản xuất trong nước). Người nước ngoài sống ở Hy Lạp phải nộp thuế thân, và trong những trường hợp khẩn cấp, những công dân có giàu nhất cũng bị đánh thuế trực tiếp (Kolasa-Sikiaridi 2022).
Ấn Độ. Trước năm 300 TCN, Ấn Độ cổ đại cũng đánh thuế nông nghiệp và thương mại, và nhiều ngành nghề khác. Có các khoản thuế đánh vào đất đai, rượu, muối, khai thác mỏ và các hoạt động khác. Cũng như ở Hy Lạp, thuế và các khoản vay được huy động nhằm xử lý các trường hợp khẩn cấp.
La Mã. Cộng hòa La Mã (509–27 TCN) thu thuế hải quan đối với ngoại thương và thuế tài sản đối với đất đai và tài sản. Từ “tax” (thuế) mà chúng ta dùng có thể bắt nguồn từ tiếng La Mã (taxare), có nghĩa là “ước tính giá trị”. Những “nông dân thu thuế” hoạt động hiệu quả, nhưng lại tham nhũng, làm cho hệ thống này không được người ta ưa chuộng. Sau đó, hoàng đế Augustus (63 TCN–14 SCN) ban hành thuế đánh vào tài sản và thuế thân đối với tất cả những người trưởng thành. Một điều kỳ lạ thú vị sau này, trong Đế chế La Mã, là thuế đánh vào nước tiểu thu được từ nhà vệ sinh công cộng - nguồn amoniac quý giá để giặt và làm trắng vải len.
Nước Anh. Một loại thuế thú vị khác là Danegeld của nước Anh thời Anglo-Saxon (991–1016) - đánh vào đất đai để trả tiền bảo kê cho những kẻ đột kích người Viking, nhằm ngăn chặn không để chúng cướp bóc đất đai và tài sản. Đáng buồn là, các cuộc tấn công vẫn tiếp tục: theo lời của một nhà thơ sau rất lâu về sau, Rudyard Kipling, “một khi bạn đã trả cho hắn thuế Dane-geld, bạn sẽ không bao giờ thoát khỏi bọn người Dane”. Dường như, việc xóa bỏ loại thuế này cũng không hề dễ dàng: sau khi chế ngự được người Viking, thì các ông vua vẫn tiếp tục thu loại thuế này.
Các lãnh chúa địa phương cũng có thể tăng thu nhập – có truyền thuyết (chắc chắn là sai sự thật hoặc có phóng đại), nói rằng nữ bá tước Anglo-Saxon thế kỷ XI, Lady Godiva, đã khỏa thân cưỡi ngựa qua các đường phố Coventry để phản đối các loại thuế có tính áp bức của chồng bà đối với những người thuê đất của ông này. Nhưng những người cai trị mới ở nước Anh sau cuộc xâm lược của người Norman vào năm 1066 đã hoạt động có hệ thống hơn hẳn; họ đánh giá và ghi lại tiềm năng thuế của cả nước trong Domesday Book và đánh thuế đất đai màu mỡ, gia súc, thị trấn và nhiều thứ khác.
Thuế thân (hay còn gọi là thuế “phiếu bầu”) được áp dụng ở Anh từ năm 1275 trở đi. Thuế năm 1381, với mức tối thiểu là bốn xu, được cho là nguyên nhân gây ra cuộc nổi dậy của Nông dân trong năm đó. Đây không phải là phản ứng dữ dội đầu tiên nhằm chống lại thuế khoá bất công. Sau khi vua John (1166–1216) của người Norman bóc lột người đóng thuế để tài trợ cho các cuộc chiến tranh ở nước ngoài, các vị nam tước sự cai trị tùy tiện của nhà vua bằng Đại Hiến Chương Tự Do (Magna Carta - 1215), (Butler 2015). Đây cũng không phải là cuộc nổi dậy cuối cùng: những khoản thuế tùy tiện dưới thời Charles I (1600–49) đã góp phần tạo ra các cuộc nội chiến, và cuối cùng là vụ hành quyết vua Charles.
Thế giới hậu công nghiệp
Vương quốc Anh. Cuộc Cách mạng Công nghiệp, bắt đầu vào khoảng năm 1760 tại Vương quốc Anh, cũng đã cách mạng hóa biện pháp thu thuế. Tỷ lệ thuế bắt đầu chuyển từ đất đai, vật nuôi và nông sản sang kinh doanh, sản xuất, việc làm và thu nhập.
Từ năm 1789 đến năm 1831, thuế đánh vào mỡ động vật dùng để làm nến làm cho ánh sáng nhân tạo trở thành đắt đỏ, dẫn đến thành ngữ: “Trò chơi không giá trị bằng ngọn nến”. Một trong những lý do làm cho đầu thế kỷ XIX, tóc giả không còn phổ biến nữa là khoản thuế năm 1795 đánh vào bột có mùi thơm mà người ta phủ lên tóc giả.
Thuế thu nhập có từ thời cổ đại, nhưng phiên bản hiện đại xuất hiện vào năm 1799, khi Thủ tướng Anh William Pitt (1759–1806) áp dụng để tài trợ cho cuộc chiến chống lại Napoleon (1769–1821). Biện pháp mới của ông là đánh thuế thu nhập những người có thu nhập hàng năm trên 60 bảng Anh, theo thang bậc, từ 1% đến 10% đối với thu nhập từ 200 bảng Anh trở lên. Nói chung, khoản thuế này được chấp nhận như cái giá của chiến thắng – mặc dù Ủy viên Quốc hội đã phàn nàn về số lượng Nghị sĩ Quốc hội khai báo thu nhập của họ chỉ là 59 bảng Anh (Phillips 1967)
Năm 1816, sau khi Napoleon không còn đe doạ nữa, thuế thu nhập đã bị bãi bỏ và các hồ sơ được đốt bỏ. Nhưng năm 1842, Thủ tướng Robert Peel (1788–1850) đã khôi phục lại loại thuế này; mặc dù được cho là một biện pháp “tạm thời”, nhưng kể từ đó, thuế thu nhập đã được áp dụng ở Anh. Thủ tướng William Gladstone (1809–98) đề xuất bãi bỏ loại thuế này, nhưng kế hoạch của ông đã bị phá sản do phải tài trợ cho Chiến tranh Crimea năm 1853–56.
Thế kỷ XXI xuất hiện thuế thu nhập cao hơn đối với lợi nhuận đầu tư, đây là loại “siêu thuế”, đánh vào những người có thu nhập cao nhất (thu trực tiếp từ người sử dụng lao động “nộp thuế theo thu nhập”), và các loại thuế đánh vào lợi nhuận và lợi tức vốn của công ty. Những năm đầu của thế kỷ XXI lại xuất hiện các loại thuế “lén lút” đánh vào du lịch hàng không, quỹ hưu bổng và các khoản đầu tư khác.
Hoa Kỳ. Từ những năm 1660 trở đi, Anh đã ban hành nhiều biện pháp khác nhau nhằm ngăn chặn, không cho những người định cư ở Mỹ buôn bán với các nước khác, hoặc đánh thuế xuất khẩu nếu họ buôn bán. Mật mía, sắt, muối, rượu, đường, giấy, chì, thủy tinh, sơn, và thậm chí cả mũ đều bị chính quyền thực dân đánh thuế. Đạo luật Tem (The Stamp Act -1765) đánh thuế cả các tài liệu pháp lý, báo chí, quân bài, xúc xắc và các mặt hàng khác. Thuế trà đã châm ngòi cho sự kiện Tiệc trà Boston (1773), và ba năm sau, những người định cư ở đây tuyên bố độc lập và cầm vũ khí đứng lên chống lại nước Anh.
Chính phủ của quốc gia mới được thành lập cần phải gia tăng thu nhập. Khoảng 90% thu nhập là từ thuế xuất nhập khẩu, nhờ Đạo luật Thuế xuất nhập khẩu năm 1789 của James Madison (1751–1836), áp đặt thuế lên trọng tải của tầu thuyền thương mại, và đánh thuế rượu whisky, xe ngựa và các mặt hàng xa xỉ khác. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau chính phủ nước này đã coi thuế nhập khẩu là biện pháp bảo vệ các nhà sản xuất trong nước cũng như tăng thu cho ngân sách, và các loại thuế mang tính bảo hộ được áp dụng cho các hàng hóa nhập khẩu như sắt, bông và gai dầu.
Trong cuộc Nội chiến ở Mỹ (1861–65), chính phủ Liên bang đã tìm mọi cách huy động tiền, áp thuế lên nhiều mặt hàng hơn trước, trong đó các mặt hàng xa xỉ như đánh bạc, thuốc lá và rượu, cùng với các dịch vụ chuyên nghiệp, bằng sáng chế, tem, sản xuất và thu nhập của công ty. Sau chiến tranh, nhiều loại thuế nhập khẩu và thuế suất vẫn được duy trì. Thuế thu nhập bị bãi bỏ vào năm 1872, nhưng được khôi phục lại vào năm 1894 – nhưng một năm sau đã bị Tòa án Tối cao phán quyết là vi hiến. Tuy nhiên, khoản thuế này vẫn chưa bị xóa bỏ. Đầu những năm 1900, khoản thuế này tái xuất hiện dưới một hình thức khác, và đã gia tăng mạnh mẽ để giúp chi trả cho Thế chiến thứ nhất (1914–1918).
Sau chiến tranh, xuất hiện áp lực giảm thuế, và trong những năm 1920, Tổng thống Calvin Coolidge (1872–1933) đã cắt giảm mức thuế suất thu nhập cao nhất. Một số nhà quan sát cảm thấy ngạc nhiên là sau đó nhóm người thu nhập cao đóng góp lại nhiều hơn, vì những hiệu ứng làm nản lòng của mức thuế cao đã giảm. Trong những thập kỷ tiếp theo, Chiến tranh Thế giới thứ hai (1939–45), Chiến tranh Triều Tiên (1950–53) và Chiến tranh Việt Nam (1955–75) đều dẫn đến tăng thuế. Đến đầu những năm 1960, áp lực cắt giảm thuế lại xuất hiện, và khi Tổng thống John F. Kennedy (1917–63) cắt giảm thuế suất thu nhập cao nhất, tỷ trọng doanh thu đến từ những người có thu nhập cao hơn lại tăng lên, giống như dưới thời Coolidge. Hiệu ứng tương tự cũng xảy ra sau năm 1980, khi các tổng thống Ronald Reagan (1911–2004) cắt giảm thuế suất cao nhất và George W. Bush (1946–) cắt giảm trong các năm 2001–03 (Grecu 2004: 6–9).
Một số bài học từ lịch sử
Tài liệu lịch sử cho chúng thấy sự khéo léo của các chính phủ trong việc tìm ra những sản phẩm mới để đánh thuế – đất đai, vật nuôi, muối, dầu ô liu, trà, thuốc lá, sáp nến, bột làm tóc giả, xà phòng, thu nhập, lợi nhuận, nước tiểu, sơn, du lịch hàng không, tem, quân bài, mũ và nhiều thứ khác. Năm 1705, Hoàng đế Nga Peter Đại đế thậm chí còn đánh thuế cả râu. Tuy nhiên, đấy không phải là do nhu cầu tăng thu: thay vào đó, nó là một phần trong kế hoạch biến Nga thành cường quốc hàng đầu châu Âu, ông muốn đàn ông Nga noi gương phong cách cạo râu sạch sẽ của người Tây Âu. Đó là một ví dụ ban đầu về loại thuế được thiết kế nhằm thay đổi hành vi của con người2.
Ngoài ra, dường như thuế có thể vẫn tồn tại trong thời gian dài sau khi lý do ban đầu đã không còn. Thuế Dane-geld vẫn tồn tại sau khi người Đan Mạch không còn đe doạ nữa, thuế thu nhập vẫn còn sau khi Napoleon đã chết, và nhiều loại thuế “khẩn cấp” khác cũng ở trong trình trạng tương tự. Năm 1902, Hoàng đế Đức, Wilhelm II (1859–1941) đánh thuế rượu sâm panh để tài trợ cho Hải quân của Đế chế. Mặc dù hạm đội của đế chìm đã bị đánh chìm vào năm 1919, thuế rượu sâm panh vẫn còn hiệu lực, tạo ra cho doanh thu hàng triệu euro. Tương tự, năm 1936, tiểu bang Pennsylvania của Hoa Kỳ thu thuế rượu để tăng nguồn thu nhằm tái thiết Johnstown - bị lũ lụt tàn phá. Chẳng bao lâu sau Johnstown đã được tái thiết, nhưng loại thuế này (hiện nay là 18%) vẫn còn hiệu lực (Shannon 2017).
Thuế khoá trong giai đoạn hiện nay
Quy mô ngày càng mở rộng. Hiện nay, các quốc gia phát triển hơn về kinh tế hơn có những hệ thống thuế khoá phức tạp nhất. Và ở những nước này, trong một trăm năm qua, tiền thuế thu được đã tăng đáng kể.
Đấy một phần là do hầu hết các nước này hiện là những nhà nước phúc lợi to lớn và tốn kém trong đó có bảo hiểm xã hội, chăm sóc sức khỏe, nhà ở và giáo dục. Với dân số ngày càng già hơn và tuổi thọ cao hơn, những chương trình này ngày càng trở nên tốn kém hơn vì phải phục vụ nhiều người hơn, với những nhu cầu phức tạp hơn, và trong thời gian dài hơn.
Nhưng thuế có nhiều mục đích hơn chứ không chỉ tài trợ cho các dịch vụ của nhà nước. Đấy là tái phân phối thu nhập, kích thích các ngành công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng và thay đổi hành vi của người dân. Chính phủ càng muốn huy động nhiều tiền hơn cho những mục đích này, thì việc tìm kiếm nguồn thu của họ càng bao trùm hơn và khéo léo hơn. Thật không may là, nó có thể làm cho tình hình thêm phức tạp, và tạo thêm gánh nặng cho người nộp thuế.
Một vài loại thuế lớn. Hầu hết các chính phủ thu phần lớn ngân sách của mình từ một vài loại thuế rất lớn, chủ yếu là thuế thu nhập, thuế bán hàng và thuế an sinh xã hội (chẳng hạn như ở Mỹ và Anh, ba loại thuế này chiếm khoảng ba phần năm tổng thu ngân sách). Thuế đánh vào doanh nghiệp, vốn và tài sản thường là nguồn thu lớn thứ hai, còn các loại thuế khác chỉ mang lại nguồn thu tương đối nhỏ (xem ví dụ: Keep 2023).
Cơ hội và hạn chế. Tuy nhiên, phát triển kinh tế làm gia tăng cơ hội đánh thuế. Kinh tế phát triển thì sẽ có nhiều ngành công nghiệp, nhiều quy trình sản xuất, nhiều nhà máy, nhiều công trình, nhiều nghề nghiệp, nhiều dịch vụ và giao dịch phái nộp thuế hơn là kinh tế nông nghiệp. Phát triển cũng tạo ra nhiều của cải hơn, và nói chung, phân phối của cải và thu nhập cũng bình đẳng hơn (OECD 2011), mở rộng phạm vi đánh thuế (‘cơ sở thuế’) hơn nữa: đơn giản là có nhiều người có khả năng đóng thuế hơn.
Đến những năm 1980, Sở Thuế vụ đã trở thành đơn vị sử dụng nhiều lao động nhất ở Mỹ, và thuế là khoản chi tiêu lớn nhất của nhiều hộ gia đình. Nhưng sau đó, người nộp thuế ở Mỹ và các quốc gia khác bắt đầu nổi dậy. Đáp lại, trong thập niên 1980 và 1990, một số chính phủ đã hạ thuế suất danh nghĩa. Tuy nhiên, ngay cả những nhà lãnh đạo cam kết cắt giảm thuế như Ronald Reagan ở Mỹ và Margaret Thatcher (1925–2013) ở Anh cũng phải khó khăn lắm mới giảm được nhu cầu về tiền bạc của chính phủ.
Các loại thuế mới. Chính phủ các nước đã nhanh chóng tìm ra những biện pháp sáng tạo nhằm lấp đầy khoảng trống - đánh thuế các ngành công nghệ mới và các loại thuế “ngầm” mà người nộp thuế khó nhận ra hơn. Họ cũng vay mượn nhiều hơn - thực chất là chuyển chi phí hoạt động của chính phủ sang các thế hệ tương lai.
Đây là một ý tưởng xưa cũ (xem Due và Kay..). Thời Trung cổ, chính quyền Venice và Genoa đã vay mượn tiền từ các ngân hàng mới thành lập. Năm 1692, chính phủ Anh đã cầm cố biên lai thuế rượu làm vật đảm bảo cho khoản vay 1 triệu bảng Anh. Từ thế kỷ XVII trở đi, các bộ trưởng tài chính Pháp cũng đều vay tiền từ bên ngoài. Chính phủ Mỹ cũng vay tiền để tài trợ cho cuộc chiến tranh cách mạng chống lại nước Anh.
Các khoản nợ của Canada xuất hiện ngay từ khi thành lập liên bang vào năm 1867. Năm 1870, chính phủ Nhật Bản phát hành trái phiếu. Tuy nhiên, nói chung, các khoản vay của chính phủ thường khá, nếu không nói tới giai đoạn chiến tranh. Sau đó, từ đầu những năm 2000, với chi phí phúc lợi, lương hưu và các dịch vụ công khác ngày càng tăng, cộng với chi phí của cuộc khủng hoảng tài chính và đại dịch, việc vay mượn đã tăng lên đáng kể. Các chính phủ phải đứng trước thách thức lớn là tìm thêm nguồn thu thuế để tái cân bằng sổ sách – và làm như thế mà không cản trở quá trình phục hồi kinh tế.
Chú thích:
(1) Muốn tìm hiểu thêm về lịch sử các hệ thống thuế, xin mới đọc Blankson (2007).
(2) Muốn biết một số loại thuế kỳ lạ nhất trong lịch sử, xin mời đọc Keck (2022).
Nguồn: Eamonn Butler, “An Introduction to taxation”, The Institute of Economic Affairs, 2024. Phạm Nguyên Trường dịch.