[Nhập môn về chủ nghĩa tư bản] - Chương 2: Chủ nghĩa tư bản là gì?

[Nhập môn về chủ nghĩa tư bản] - Chương 2: Chủ nghĩa tư bản là gì?

Thực tại và những quan niệm sai lầm

Dù bạn có định nghĩa như thế nào, thì chủ nghĩa tư bản cũng đã làm cho của cải và mức sống của con người gia tăng rất mạnh. Trước khi cuộc Cách mạng Công nghiệp xuất hiện, trong những năm 1760, cuộc sống con người có rất ít thay đổi. Hầu hết mọi người đều làm nông nghiệp, với những phương pháp canh tác chẳng có mấy thay đổi kể từ thời các Pharaoh. Năm 1800, theo tính toán của nhà sử học kinh tế người Mỹ, Deirdre McCloskey (1942−), thì thu nhập trung bình của người dân trên thế giới là từ 1 đôla cho đến 5 đôla một ngày. Bây giờ thu nhập bình quân là gần 50 đôla một ngày. Thậm chí thu nhập trung bình này cũng che dấu sự thịnh vượng mà các nước tư bản chủ nghĩa tiên tiến hơn đã giành được. Trong khi những nước có tư tưởng bài chủ nghĩa tư bản nhất hiện nay vẫn còn ngụp lặn trong vũng bùng nghèo đói với thu nhập từ 1 đến 5 đôla một ngày, thì thu nhập trung bình hàng ngày ở các nước tư bản chủ nghĩa như Thụy Sĩ, Úc, Canada và Vương quốc Anh hiện đã vượt quá 90 đôla một ngày. Thu nhập trung bình ở Hoa Kỳ trên 100 đôla một ngày, làm cho người Mỹ hiện đại giàu hơn 20−100 lần tổ tiên của họ trong năm 1800.

Không chỉ một số ít người giàu mới có tài sản gia tăng mạnh mẽ như thế. Ở các nước tư bản, những thứ từng là xa xỉ phẩm - nhà ở khang trang, vệ sinh, ánh sáng và lò sưởi, quần áo dự phòng, đi du lịch, nghỉ ngơi, giải trí, thịt tươi – là những hàng hóa mà tất cả mọi người đều tiếp cận được. Giờ đây, công việc nặng nhọc trong sản xuất công nghiệp và trong gia đình đã được máy móc làm thay con người. Sức khỏe, tỷ lệ sống sót của trẻ em, tuổi thọ và giáo dục đều được cải thiện rõ rệt.

Những lời miệt thị chủ nghĩa tư bản

Tuy nhiên, ngay cả khi “Sự làm giàu vĩ đại” này (McCloskey như thế) đang triển hiện, thì từ chủ nghĩa tư bản đã bị người ta biến thành thuật ngữ đáng khinh. Từ tư bản hay vốn (capital) xuất hiện từ những năm 1100, khi thuật  tiếng Latinh Capitale (xuất phát từ từ caput, có nghĩa là “đầu”) được sử dụng để nói về đàn gia súc, và sau đó, là nói về hàng hóa hoặc tiền; nhà tư bản (capitalist), có nghĩa đơn giản là chủ sở hữu vốn, xuất hiện trong những năm 1600. Nhưng đến năm 1867, mặc cho sự giàu có mà cuộc Cách mạng Công nghiệp đã mang lại, nhà tư tưởng chính trị người Đức, Karl Marx (1818–83), đã tỏ thái độ khinh bỉ “phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa” - cái mà ngày nay chúng ta gọi là chủ nghĩa tư bản - trong cuốn sách Das Kapital của ông ta.

Đó là một cuộc tấn công cực kỳ thành công, vì những luận điểm của Marx vẫn tiếp tục định hình cuộc tranh luận hiện nay. Nhiều người vẫn coi chủ nghĩa tư bản bắt nguồn từ những động cơ phản xã hội hoặc vô đạo đức, ví dụ như ích kỷ, tham lam và không quan tâm đến người khác. Thông thường, chủ nghĩa tư bản thậm chí còn được định nghĩa bằng những động cơ như thế - với ngầm định rằng không có lợi ích xã hội nào có thể đến từ những động cơ đó. Còn chủ nghĩa xã hội lại được người ta coi là được xây dựng trên những động cơ tốt - lòng vị tha, sự hợp tác, hài hòa - với ngầm định rằng những động cơ đó tất sẽ tạo ra những kết quả xã hội tốt đẹp.

Tuy nhiên, liên hệ giữa động cơ cá nhân và kết quả xã hội không đơn giản như thế. Ví dụ, nhà triết học và kinh tế học người Scotland, Adam Smith (1723–90), đã chỉ ra bằng cách nào mà tư lợi có thể tạo ra những kết quả xã hội có lợi, trong khi nhà văn người Mỹ gốc Nga, Ayn Rand (1905–82), tuyên bố rằng lòng vị tha chỉ có thể tạo ra những tệ nạn xã hội mà thôi. Quan trọng là phải xem xét những động cơ thực sự truyền cảm hứng cho con người trong chủ nghĩa tư bản hoặc trong chủ nghĩa xã hội, và tìm ra kết quả xã hội tốt hay xấu mà chúng thực sự tạo ra.

Một sai lầm phổ biến khác – hay là sự dối trá - của những người bình luận về chủ nghĩa tư bản là so sánh thực tế của chủ nghĩa tư bản với lý tưởng của chủ nghĩa xã hội, họ thường đưa ra lý do là “chủ nghĩa xã hội lý tưởng chưa bao giờ được thử nghiệm trên thực tế”. Rồi người ta mô tả chủ nghĩa xã hội là trong sáng và cao quý, trong khi họ lên án chủ nghĩa tư bản vì những động cơ, hành động và kết quả xấu trong lịch sử kinh tế trong thời gian gần đây. Nhưng so sánh lý thuyết với thực tiễn là không chính đáng: lý thuyết phải được so sánh với lý thuyết, kết quả so sánh với kết quả. Những người bảo vệ chủ nghĩa tư bản tuyên bố rằng nó thắng trong cả hai bài kiểm tra này.

Còn rất nhiều huyền thoại và quan niệm sai lầm khác. Ví dụ, người ta cho rằng trong chủ nghĩa tư bản, chỉ có một số người sở hữu và kiểm soát vốn. Sai: như chương tiếp theo sẽ cho thấy, tất cả chúng ta đều là chủ sở hữu vốn, chỉ ở mức độ lớn hay nhỏ mà thôi. Người ta còn nói rằng chủ nghĩa tư bản là sản xuất hàng loạt, sử dụng lao động làm công ăn lương, sau đó chuyển hướng thảo luận sang các vấn đề về giai cấp xã hội và bóc lột. Cũng sai luôn: hầu hết các doanh nghiệp tư bản đều là những công ty nhỏ và thương nhân cá thể. Người ta thường đánh đồng chủ nghĩa tư bản với lợi nhuận và thị trường. Tuy nhiên, lợi nhuận và thị trường cũng tồn tại trong các hệ thống khác. Người ta còn cho rằng chủ nghĩa tư bản có nghĩa là độc quyền và quan hệ thân hữu. Nhưng một lần nữa, không chỉ chủ nghĩa tư bản mới có những hiện tượng này, đấy là do can thiệp chính trị.

Vấn đề định nghĩa

Do đó, đã đến lúc cần có một định nghĩa thực tế hơn về chủ nghĩa tư bản. Chúng ta cần phải thanh lý những quan niệm lạc hậu trước đây và xác định cho bằng được khái niệm đích thực.

Chính thuật ngữ chủ nghĩa tư bản cung cấp cho chúng ta một manh mối. Phần chữ tư bản (capital) hàm ý thuật ngữ này nói về tư bản hay vốn. Phần chữ chủ nghĩa (- ism) hàm ý thuật ngữ này nói về một lối sống bao trùm (broad way of life). (Có thể gọi nó là một hệ thống, nhưng không có ý là “hệ thống” được thiết kế và quản lý tập trung chặt chẽ hơn là chủ nghĩa tư bản). Do đó, về bản chất, chủ nghĩa tư bản là một lối sống về sử dụng vốn.

Từ tư bản hay vốn biểu thị một khái niệm – một ý niệm trừu tượng về tổng thể các loại tư liệu sản xuất hay hàng hoá vốn cụ thể. Tương tự như chúng ta sử dụng từ động vật để mô tả một ý niệm chỉ sự tồn tại trong thực tế của những con diều hâu, muỗi, hổ, nhện, giun và cá heo cụ thể, thì ý tưởng trừu tượng về tư bản hay vốn chỉ thực sự hiện diện ở những hàng hoá vốn cụ thể, chẳng hạn như công cụ, máy móc và nguồn tài chính. Nhưng ý niệm này không chỉ giới hạn trong các nhà máy, công xưởng và dây chuyền sản xuất lớn của các doanh nghiệp lớn. Hàng hoá vốn có mặt khắp nơi – trong mỗi gia đình (máy giặt, máy hút bụi), văn phòng (máy tính, điện thoại), cửa hàng (máy tính tiền, tủ trưng bày), rạp hát, trường học và bệnh viện ở các nước đã phát triển.

Tại sao sử dụng vốn lại là một lối sống? Vì hàng hoá vốn tạo điều kiện cho chúng ta dễ dàng sản xuất và sản xuất một cách hiệu quả những thứ chúng ta muốn. Ví dụ, chúng ta có thể làm ra nhiều bánh mì hơn, với ít lao động thủ công hơn, và sử dụng máy móc nông nghiệp để trồng và thu hoạch lúa mì, cũng như cung cấp điện cho máy xay để xay bột và nướng bánh mì.

Các liên kết rộng lớn hơn của chủ nghĩa tư bản

Thường thì các nhà kinh tế học không coi đất đai hoặc lao động là hàng hoá vốn. Họ không coi tài nguyên thiên nhiên mà coi nguồn lực do người nào đó tạo ra với mục đích làm gia tăng năng suất lao động mới là hàng hoá vốn. Mặc dù hàng hoá vốn có thể bắt đầu từ những vật liệu tự nhiên như cây cối và quặng sắt, nhưng một người nào đó vẫn phải biến chúng thành thuổng và thìa dĩa, ví dụ thế.

Do đó, hàng hoá vốn không giống như những vùng đất hoang vu hay sa mạc – đấy là những thứ không thuộc sở hữu của bất cứ người nào. Một người nào đó phải đầu tư thời gian và công sức để tạo ra hàng hoá vốn. Và đương nhiên là, những người tạo ra hàng hoá vốn nên coi chúng là tài sản cá nhân của mình. Xét cho cùng, nỗ lực của họ là thành phần thiết yếu cấu thành hàng hoá vốn, nó sẽ không tồn tại nếu những người kia không nỗ lực. Do đó, khái niệm vốn ám chỉ - hoặc ít nhất là gợi ý một cách mạnh mẽ - rằng phải có quyền sở hữu tư nhân đối với hàng hoá vốn.

Nói thế không có nghĩa là chỉ một số ít người giàu có mới sở hữu vốn – đấy là những “tên tư sản giàu có” trong các bức tranh biếm họa mà ta thường thấy. Ngược lại, bất kỳ người nào, nhóm người nào, chẳng hạn như hợp tác xã hoặc công ty đều có thể tạo ra và nắm quyền sở hữu hàng hoá vốn. (Một số người thậm chí còn nói tới “chủ nghĩa tư bản nhà nước” - các chính phủ sở hữu và điều hành các doanh nghiệp - mặc dù hiện tượng này dường như mâu thuẫn với thuật ngữ chủ nghĩa tư bản mà người ta thường sử dụng). Chắc chắn là, nếu hàng hoá vốn do tư nhân - các cá nhân hay các nhóm người gắn bó chặt chẽ với nhau – nắm quyền sở hữu và kiểm soát thì chủ nghĩa tư bản sẽ hoạt động hiệu quả nhất. Mặc dù sở hữu tư nhân có thể không phải là hiện tượng chỉ có trong chủ  nghĩa tư bản (và thậm chí không phải là thiết yếu), nó thường được người ta liên kết rất chặt chẽ với khái niệm này.

Chủ nghĩa tư bản cũng thường được người ta liên kết với quá trình phân phối hàng hóa thông qua các thị trường. Nhưng thị trường và chủ nghĩa tư bản không phải là một. Chủ nghĩa tư bản là nói về sản xuất hàng hóa mang tính kinh tế; thị trường là nói về phân phối những món hàng hóa này. Nhầm lẫn giữa hai hiện tượng này dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng trong nhận thức về chủ nghĩa tư bản và phương thức hoạt động của nó.

Không chỉ chủ nghĩa tư bản mới có thị trường: các hệ thống sản xuất khác cũng sử dụng thị trường. Thị trường cũng không phải là cốt lõi của chủ nghĩa tư bản: những sản phẩm mà nó tạo ra có thể được phân phối theo một số phương thức khác - chẳng hạn như bằng sắc lệnh của chính phủ hoặc thông qua bốc thăm. Nhưng cần phải tìm cho ra một hình thức phân phối hiệu quả nào đó, đơn giản vì chủ nghĩa tư bản rất hiệu quả trong việc sản xuất sản phẩm: năng suất khổng lồ có được nhờ sử dụng các hàng hoá vốn chuyên môn hóa cho phép con người tạo ra thặng dư khổng lồ, sau đó có thể được đem đi trao đổi. Thị trường hóa ra lại là phương tiện phân phối rất hiệu quả: vì vậy, một lần nữa, chủ nghĩa tư bản và thị trường thường song hành với nhau.

Những hiện tượng không phải là cốt lõi của chủ nghĩa tư bản

Nhiều người cầm bút, do ảnh hưởng của Marx, cho rằng chủ nghĩa tư bản nhất thiết phải được xây dựng trên hệ thống tiền công. Theo quan điểm của họ, các nhà khởi lập nghiệp tư bản chủ nghĩa tích lũy hàng hoá vốn, chẳng hạn như công xưởng và nhà máy, và thuê công nhân vận hành những phương tiện sản xuất này. Quan điểm về chủ nghĩa tư bản như thế cung cấp cho những người cầm bút nền tảng để so sánh lợi nhuận của nhà khởi lập nghiệp (entrepreneur) với tiền công của công nhân, mà họ coi là cơ sở của sự phân chia giai cấp, trong đó người lao động bị các nhà tư bản bóc lột.

Quan điểm này sai. Chủ nghĩa tư bản không nhất thiết hàm ý phải tồn tại hệ thống tiền công, cũng như phân chia giai cấp. Những người buôn bán cá thể, không thuê bất cứ người nào, vẫn mua tậu hàng hoá vốn: người thợ gốm đầu tư vào bánh xe và lò nung, người bán hàng mua máy tính tiền, chuyên gia tư vấn mua máy tính và điện thoại. Thậm chí có thể hình dung được hoạt động sản xuất quy mô lớn hơn mà hoàn toàn do máy móc thực hiện: các nhà sản xuất ô tô, những người bán lẻ trực tuyến, người hoạt động trong lĩnh vực giao dịch tài chính và những người khác, họ ngày càng sử dụng nhiều robot trong quá trình sản xuất và bán sản phẩm của mình. Và trên thực tế, xã hội tư bản chủ nghĩa thực ra là nằm trong số những xã hội cởi mở nhất, linh hoạt nhất về mặt xã hội và ít ràng buộc về mặt giai cấp nhất trên thế giới này.

Độc quyền cũng không phải là hiện tượng tất yếu của chủ nghĩa tư bản. Marx nghĩ rằng, nhờ sản xuất trên quy mô lớn, các doanh nghiệp tư bản chắc chắn sẽ phát triển thành các công ty độc quyền lớn. Nhưng trên thực tế, sản xuất quy mô lớn cũng có những bất lợi nhất định: các doanh nghiệp lớn khó quản lý hơn hẳn, khả năng thích ứng với những thay đổi về cả công nghệ và nhu cầu của người tiêu dùng cũng chậm hơn hẳn - tạo ra thời gian cho các đối thủ cạnh tranh nhỏ hơn, nhanh nhẹn hơn, giành giật công việc kinh doanh của họ. Đúng là các nhà sản xuất có thể và thường tìm cách sử dụng ảnh hưởng chính trị nhằm thao túng thị trường theo hướng có lợi cho mình: nhưng cách làm này hoàn toàn trái ngược với khái niệm về chủ nghĩa tư bản, chứ không phải là cốt lõi nó. Trong chủ nghĩa tư bản chân chính, biện pháp duy nhất để phát triển doanh nghiệp là cung cấp hàng hóa và dịch vụ mà người ta sẵn sàng mua. Và trong khi công nghệ và thị hiếu của người tiêu dùng thay đổi quá nhanh, duy trì thế độc quyền là công việc thiên nan vạn nan đối với bất cứ người nào.

Những hiện tượng không chỉ xuất hiện trong chủ nghĩa tư bản

Có một số hiện tượng mà các nhà phê bình nghĩ đến và viết như thể chúng không chỉ là cốt lõi mà còn chỉ xuất hiện trong chủ nghĩa tư bản, nhưng thực tế thì không phải như thế. Và đây là sự nhầm lẫn, hay dối trá khác, làm mất uy tín của chủ nghĩa tư bản.

Ví dụ, người ta thường viết rằng chủ nghĩa tư bản chỉ là tìm kiếm lợi nhuận: và lợi nhuận thường bị người ta coi là xấu. Cả hai quan điểm này đều sai. Lợi nhuận đơn giản có nghĩa là kiếm được nhiều hơn từ những thứ bạn bỏ ra. Nhưng lợi nhuận không chỉ là tiền. Chúng ta tìm kiếm lợi nhuận không ở dạng tiền trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Nếu chúng ta khó nhọc mới leo lên được đỉnh núi, nhưng lại được tưởng thưởng bằng một quang cảnh huy hoàng, hoặc dự một bài giảng nhưng học được những điều thú vị, chúng ta cho rằng những nỗ lực đó đã mang lại cho mình lợi ích. Và trong bất kỳ hệ thống kinh tế nào, tư bản chủ nghĩa hay không phải tư bản chủ nghĩa, thì mọi người cũng đều hy vọng thu được những lợi ích tương tự, tính bằng giá trị. Thật vậy, hoạt động kinh tế, bao gồm những yếu tố đầu vào như thời gian, năng lượng, tài nguyên và rủi ro, sẽ trở nên vô nghĩa nếu chúng ta định giá hàng hóa được tạo ra thấp hơn so với các yếu tố đầu vào mà chúng ta bỏ ra để sản xuất ra những hàng hóa này.

Điều kỳ lạ là, tư bản cũng không phải là thứ chỉ có trong chủ nghĩa tư bản. Các hình thức sản xuất khác cũng sử dụng hàng hoá vốn. Từ những công cụ cầm tay của tập thể làng xã nguyên thủy nhất đến các công xưởng và nhà máy của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa tiên tiến nhất, hàng hoá vốn được tạo ra và được sử dụng để làm cho sản xuất dễ dàng hơn và hiệu quả hơn.

Cạnh tranh - thường được những người phê phán chủ nghĩa tư bản gọi là “cạnh tranh tàn bạo” nhằm tạo hiệu ứng trong cuộc bút chiến - cũng không phải là hiện tương chỉ có trong chủ nghĩa tư bản. Những hệ thống khác cũng sử dụng cạnh tranh để được tưởng thưởng (ví dụ, phần thưởng bằng tiền, địa vị chính trị hoặc danh dự), coi đấy là biện pháp kích thích mọi người làm việc chăm chỉ hơn, hiệu quả hơn, trung thực hoặc đổi mới hơn.

Chủ nghĩa thân hữu không phải là một phần trong khái niệm cốt lõi của chủ nghĩa tư bản, và chắc chắn không phải là hiện tượng chỉ có trong chủ nghĩa tư bản. Các nguyên tắc của chủ nghĩa tư bản không hàm ý liên minh xấu xa giữa chủ sở hữu vốn và các chính trị gia nhằm bóc lột những người khác. Thật vậy, những nguyên tắc của chủ nghĩa tư bản giới hạn quyền lực của nhà nước trong việc bảo vệ các cá nhân nhằm chống lại tình trạng cưỡng bức và trộm cắp, dù đấy có là từ các cá nhân khác hay từ nhà nước và những người được nó bao che thực hiện thì cũng thế. Trên thực tế, trong các xã hội xã hội chủ nghĩa cơ hội cho quan hệ thân hữu còn lớn hơn, bởi ở đó nhà nước phải lớn và quyền lực thì mới điều hành được mọi thứ, và do đó, thông qua các chính trị gia và quan chức tham nhũng người ta có thể khai thác được nhiều quyền lực nhà nước hơn là trong chủ nghĩa tư bản.

Bóc lột trên thực tế không phải là thành tố của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản mang lại cho người ta những lợi ích thông qua trao đổi tự nguyện, chứ phải không ép buộc người ta mua hay sản xuất hoặc tiêu dùng một số sản phẩm nhất định. Người không bị buộc phải làm thuê cho người sử dụng lao động để nhận tiền công: họ có thể tự làm việc; doanh nghiệp không bắt buộc phải sản xuất những sản phẩm mà nhà nước yêu cầu; các cá nhân có quyền lựa chọn mua hay không mua món hàng nào. Và vì trao đổi trong chủ nghĩa tư bản là tự nguyện, nên trao đổi chỉ diễn ra khi cả hai bên đều có lợi. Tương tự như trẻ em trao đổi với nhau những miếng dính câu lạc bộ bóng đá, trao đổi tự nguyện mang lại cho mỗi bên cái mà họ đánh giá cao hơn cái mà họ phải từ bỏ: cả hai bên đều thấy có lợi, nếu không thì cuộc trao đổi sẽ không bao giờ diễn ra. Chủ nghĩa tư bản thì cũng thế: muốn thịnh vượng, các nhà sản xuất phải tạo ra hàng hóa và dịch vụ mà khách hàng đánh giá cao hơn số tiền họ bỏ ra để mua những sản phẩm này; để thấy việc đi làm công là xứng đáng, người lao động phải đánh giá thu nhập họ nhận được cao hơn thời gian và công sức mà mình bỏ ra. Những trao đổi tự nguyện như vậy không phải là bóc lột mà là cải thiện điều kiện sống của họ.

Cuối cùng, lòng tham cũng không phải là hiện tượng chỉ có ở chủ nghĩa tư bản; nó có mặt trong tất cả các hệ thống kinh tế và tất cả các nẻo đường của cuộc sống. Chắc chắn là chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên lợi ích cá nhân, đó là đặc điểm tự nhiên của con người: nếu không quan tâm đến lợi ích của chính mình, chúng ta sẽ không tồn tại được lâu. Nhưng chủ nghĩa tư bản trừng phạt thói tham lam. Những người tự do đơn giản là không giao dịch với những nhà sản xuất mà họ tin là không trung thực, không đáng tin hoặc chú ý quá nhiều vào bản thân mình mà không chú ý tới khách hàng. Trong một nền kinh tế cạnh tranh, có rất nhiều nhà cung cấp khác, người tiêu dùng có thể tìm đến những người này. Đó là lý do vì sao chúng ta không cần luật “chống tham lam” nhằm ngăn chặn những quán cà phê bán quá đắt: nếu họ làm như thế, khách hàng sẽ nhanh chóng bỏ đi. Trên thực tế, chủ nghĩa tư bản là hợp tác: chúng ta đều hưởng lợi qua hợp tác dựa trên thương mại trung thực; và tất cả chúng ta đều muốn sống trong một thế giới nơi mọi người đối xử với nhau một cách công bằng.

Định nghĩa chủ nghĩa tư bản

Thế thì định chủ nghĩa tư bản như thế nào? Về bản chất, đó là lối sống kinh tế phổ biến, trong đó mọi người tạo ra và sử dụng hàng hoá vốn để sản xuất - càng hiệu quả thì càng tốt - hàng hóa và dịch vụ mà họ và những người khác muốn có.

Vượt ra ngoài định nghĩa lõi này, chủ nghĩa tư bản còn được liên kết với những hiện tượng khác có thể không phải chỉ có trong chủ nghĩa tư bản hoặc không phải là thiết yếu của nó. Ví dụ, liên kết chủ nghĩa tư bản với quyền sở hữu tài sản của các cá nhân và các nhóm người. Các quyền tài sản - các quy tắc về cách thức mua, bảo vệ, sử dụng hoặc cho/tặng tài sản  - là rất quan trọng đối với chủ nghĩa tư bản, vì chúng làm cho từng người tự tin trong quá trình tạo ra và sử dụng hàng hóa một cách hiệu quả.

Chủ nghĩa tư bản cũng được liên kết với trao đổi trên thị trường. Có thể có những cách phân phối hàng hóa kinh tế khác, nhưng trao đổi trên thị trường cung cấp cho chúng ta biện pháp phân phối phần thưởng mà các nhà sản xuất (có hiệu quả cao) trong chủ nghĩa tư bản có thể tạo ra. Ngoài ra, giá cả thị trường còn báo cho các nhà sản xuất về thị hiếu của khách hàng – giúp họ tập trung vốn vào việc phục vụ những thị hiếu đó một cách hiệu quả nhất.

Chủ nghĩa tư bản thường được coi là một lối sống trong đời sống kinh tế - nói về việc tạo ra và phân phối hàng hóa kinh tế, chứ không phải nói về kết quả mang tính đạo đức hay xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế, nó là hệ thống xã hội – những tương tác của con người ở nhiều tầng khác nhau.

Chủ nghĩa tư bản cũng là hệ thống có đạo đức cao. Các mối quan hệ của con người trong chủ nghĩa tư bản không phải là ép buộc mà là tự nguyện. Mọi người đều đầu tư, tạo ra, cung cấp, bán và mua những món hàng mà họ lựa chọn. Không chính phủ nào ra lệnh buộc họ phải hành động: quyết định là của họ. Thật vậy, vai trò duy nhất của quyền lực mà nhà nước cần nắm giữ là đảm bảo rằng các cá nhân không bị ép buộc - hoặc bị cướp, lừa gạt hoặc bị xâm phạm bằng cách khác. Chủ nghĩa tư bản không dựa trên mệnh lệnh, mà dựa trên pháp quyền, trong đó các quy tắc chung (chẳng hạn như giao dịch trung thực, tôn trọng hợp đồng và tránh bạo lực) được áp dụng cho tất cả mọi người – trong đó có các cơ quan chính phủ.

Tuy nhiên, tương tự như trò chơi, diễn ra theo quy tắc, chủ nghĩa tư bản không đảm bảo cho người chơi bất kỳ kết quả cụ thể nào. Không thể lên án nó, cho rằng nó phải chịu trách nhiệm về những tội ác, sự điên rồ hay bất hạnh của nhân loại. Nó không hứa hẹn sự giác ngộ hay bình đẳng. Nó thậm chí không hứa hẹn sẽ làm cho tất cả mọi người đều giàu lên (dù trên thực tế là có). Nhưng chủ nghĩa tư bản hứa thúc đẩy năng suất kinh tế - và thúc đẩy bằng cách luôn mở ra cơ hội cho tất cả mọi người, đối xử bình đẳng và công bằng với tất cả mọi người, đồng thời loại bỏ gian lận, ép buộc và bạo lực.

Nguồn: Eamonn Butler, "An introduction to capitalism", The Institute of Economic Affairs, 2024. Phạm Nguyên Trường dịch, Đinh Tuấn Minh hiệu đính.

Dịch giả:
Phạm Nguyên Trường
Hiệu đính:
Đinh Tuấn Minh