PGS, TS Phạm Thế Anh, Trưởng khoa Kinh tế học (Đại học Kinh tế Quốc dân): “Tăng trưởng cao phải đi cùng ổn định vĩ mô”
Trong cuộc trò chuyện với Báo Nhân Dân, PGS, TS Phạm Thế Anh - Trưởng khoa Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân, đồng thời là Kinh tế trưởng Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Việt Nam (VESS) đã chia sẻ những góc nhìn thẳng thắn về cơ hội, thách thức và yêu cầu cải cách để hướng tới tăng trưởng ổn định.
PV: Ông đánh giá thế nào về bức tranh toàn cảnh của của nền kinh tế hiện nay, khi chúng ta đang đặt mục tiêu tăng trưởng cao, trong bối cảnh dư địa chính sách tiền tệ và tài khóa không còn nhiều?
PGS, TS Phạm Thế Anh: Điểm sáng lớn nhất hiện nay là xuất khẩu và FDI vẫn duy trì được đà tăng trưởng chấp nhận được trong bối cảnh cầu toàn cầu yếu đi - điều này giữ vai trò đệm quan trọng cho tăng trưởng; bên cạnh đó, Nhà nước đang đẩy mạnh đầu tư công vào các dự án hạ tầng quy mô lớn (sân bay, đường sắt, hệ thống điện...), và quan trọng không kém là khuynh hướng chính sách gần đây coi trọng khu vực tư nhân, đặt tư nhân làm động lực chính cho tăng trưởng. Nếu có cơ chế hợp lý để doanh nghiệp tư nhân tham gia các dự án đầu tư công - theo nguyên tắc minh bạch, cạnh tranh và giám sát chặt chẽ - thì năng lực sản xuất trong nước sẽ được nâng lên, giá trị gia tăng trong chuỗi cung ứng sẽ tăng, đó là cơ hội thật sự.
Nhưng bức tranh tổng thể vẫn đầy thách thức. Trước hết, mục tiêu tăng trưởng đặt ở mức 8% (hay cao hơn) là rất tham vọng. Mấu chốt là dư địa chính sách tiền tệ và tài khóa không còn nhiều: khả năng hạ lãi suất hay mở rộng chi tiêu đều bị hạn chế vì rủi ro lạm phát và tỷ giá. Bên cạnh đó, việc mở rộng đầu tư công, giảm thuế cũng cần phải có lộ trình và kế hoạch ngân sách tổng thể và dài hạn để tránh gây áp lực nợ công và tính bền vững tài khóa. Trong điều kiện ấy, dùng công cụ chính sách kích cầu một cách ồ ạt sẽ khiến tính ổn định kinh tế vĩ mô bị tổn hại.
Xét về động lực nền tảng, những yếu tố then chốt để tạo ra tăng trưởng bền vững - tiến bộ công nghệ, năng suất lao động, đổi mới sáng tạo và khả năng nâng cao giá trị xuất khẩu - hiện chưa đủ mạnh để tạo cú huých cần thiết. Năng suất lao động của Việt Nam vẫn thấp so nhiều nước trong khu vực; đổi mới sáng tạo chưa thấm sâu vào sản xuất đại trà; nhiều ngành vẫn phụ thuộc chuỗi giá trị thâm dụng lao động và công đoạn gia công; xuất khẩu tuy tăng nhưng vẫn tập trung vào vài thị trường truyền thống, dễ bị biến động bên ngoài tác động.
Cầu nội địa cũng là điểm yếu rõ nét. Chi phí sinh hoạt, đặc biệt chi phí nhà ở tại các đô thị lớn, đang ép sức mua của hộ gia đình: người mua nhà chịu lãi vay nhiều hơn, trong khi thu nhập thực tế tăng chậm. Mặt khác, cơ cấu thuế - trong đó có thuế thu nhập cá nhân - ở mức mà nhiều lao động trung bình cảm thấy gánh nặng và các mức giảm trừ, miễn giảm hiện chưa tương xứng với thực tế chi phí sinh hoạt. Hệ quả là người dân thắt chặt chi tiêu, kéo giảm cầu nội địa - yếu tố quan trọng trong một chu kỳ tăng trưởng bền vững.
- Khi dòng tín dụng bị hút vào kênh tài sản, làm tăng nguy cơ bong bóng và làm nghẽn vốn cho sản xuất, theo ông, ngắn hạn Nhà nước nên tập trung vào giải pháp nào - giải phóng sức mua tiêu dùng nội địa, phân bổ vốn công có chọn lọc hay đẩy mạnh xuất khẩu - để vừa kích cầu vừa ổn định hệ thống tài chính?
Tôi hoàn toàn đồng tình rằng dòng tín dụng hiện nay chảy nhiều vào các kênh tài sản rủi ro, đẩy giá lên cao và dễ hình thành bong bóng. Khi bong bóng vỡ, hệ quả rất lớn: nợ xấu ngân hàng tăng, bảng cân đối bị méo mó, các dự án sản xuất kinh doanh thiếu vốn trung-dài hạn; nhiều ngân hàng phải đảo nợ để “giấu” nợ xấu, nhưng đây chỉ là giải pháp tạm thời, gây méo mó hoạt động tín dụng và hạn chế khả năng huy động vốn phục vụ sản xuất. Mở rộng tín dụng mà không cải thiện năng lực sản xuất, môi trường đầu tư và cơ chế giám sát sẽ dẫn đến bong bóng tài sản và lạm phát cao, thay vì tăng trưởng thực chất.
Nếu tín dụng tăng mạnh, lạm phát có thể lên hai con số, tùy mức độ bơm vốn vào kênh tài sản rủi ro. Điều này sẽ làm bào mòn thu nhập thực của người dân, khiến họ càng thắt chặt chi tiêu và nền kinh tế rơi vào vòng luẩn quẩn: tín dụng tăng, giá tài sản tăng, lạm phát cao, cầu nội địa bị kìm hãm, sản xuất không hưởng lợi. Đây là lý do tôi nhấn mạnh: không thể sử dụng tín dụng như công cụ duy nhất để thúc đẩy tăng trưởng GDP, phải đi kèm cải thiện năng lực sản xuất và cơ chế giám sát. Chức năng chính của chính sách tiền tệ là bình ổn kinh tế vĩ mô, nới lỏng tiền tệ khi nền kinh tế suy thoái và thắt chặt khi nền kinh tế tăng trưởng quá nóng. Chính sách tiền tệ là công cụ để các nước giữ ổn định nền kinh tế, không phải công cụ để thúc đẩy tăng trưởng. Chức năng thúc đẩy tăng trưởng trong dài hạn thuộc về chính sách tài khóa và các chính sách cấu trúc khác.
Trong bối cảnh đó, trong ngắn hạn ưu tiên hợp lý là kích thích tiêu dùng nội địa. Tiêu dùng hiện bị kìm hãm bởi thuế thu nhập cá nhân cao so với thu nhập trung bình, giá nhà cao, lãi vay mua nhà lớn. Nếu điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân hợp lý, tăng mức giảm trừ gia cảnh, giảm thuế suất cho thu nhập trung bình thấp, sức mua sẽ được giải phóng, tạo động lực tăng trưởng.
Song song, đầu tư công vẫn cần triển khai có trọng tâm, tránh dàn trải, manh mún; các dự án hạ tầng lớn nếu giao đúng cho doanh nghiệp tư nhân có năng lực sẽ vừa nâng hiệu quả, vừa giúp tư nhân trưởng thành. Xuất khẩu tiếp tục quan trọng, nhưng không thể là trụ cột duy nhất; cần đa dạng hóa thị trường và sản phẩm, nâng cao tỷ lệ đóng góp nội địa, để giảm rủi ro trước biến động quốc tế.
- Thưa ông, trong bối cảnh Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng cao cho giai đoạn tới, đâu là những điều kiện tiên quyết để vừa đạt tốc độ tăng trưởng, vừa giữ được sự ổn định vĩ mô của nền kinh tế?
Muốn nói tới tăng trưởng cao, thậm chí mơ ước mức hai con số trong những năm tới, thì điều kiện tiên quyết là phải giữ ổn định vĩ mô. Nếu vì chạy theo tốc độ mà đánh mất sự ổn định, cái giá phải trả sẽ rất đắt, và rốt cuộc không thể duy trì tăng trưởng lâu dài.
Ổn định vĩ mô có thể nhìn thấy rõ qua một số điểm then chốt. Trước hết, lạm phát phải được kìm trong biên độ hợp lý, tốt nhất là 2-4%. Ở mức này, doanh nghiệp có động lực mở rộng sản xuất, người dân vẫn giữ được sức mua, và quan trọng hơn, thu nhập thực không bị bào mòn. Bởi lạm phát là “kẻ trộm vô hình”, cướp mất đồng lương của người lao động, nhất là những người nghèo.
Một yếu tố khác là thị trường bất động sản. Nếu để các cơn sốt đất cứ vài năm lại bùng lên, giá nhà leo thang vượt xa khả năng chi trả, thì khoảng cách giàu nghèo sẽ bị kéo giãn dữ dội. Ở các thành phố lớn, ngay cả những người có thu nhập vài chục triệu một tháng vẫn khó mua nổi một căn hộ. Với mức thu nhập bình quân khoảng 5.000 USD mỗi năm, nhiều người tích cóp cả ba thập niên cũng khó thực hiện giấc mơ an cư - đó là hệ lụy xã hội rất nặng nề.
Rồi đến tỷ giá. Một nền kinh tế dựa nhiều vào xuất khẩu và vốn đầu tư nước ngoài như Việt Nam không thể để đồng nội tệ trượt giá quá nhanh.VND có thể giảm nhẹ, nhưng nếu mất giá 5-10% mỗi năm thì đó đã là dấu hiệu bất ổn.
Và cuối cùng, là nợ công. Đúng là tỷ lệ nợ công hiện nay còn tương đối thấp, quanh 34-35% GDP, nhưng đừng quên rằng chỉ một dự án đường sắt cao tốc bắc - nam cũng đủ kéo con số này tăng lên nhanh chóng. Chưa kể hàng loạt dự án hạ tầng lớn khác đang chờ vốn. Điều này đòi hỏi chúng ta phải tính toán kỹ lưỡng cách huy động và sử dụng nguồn lực, để không tạo gánh nặng lên hệ thống tài chính quốc gia.
Nói ngắn gọn, muốn đi xa thì phải giữ được sự cân bằng. Tăng trưởng cao chỉ có ý nghĩa khi nó đặt trên nền tảng ổn định bền vững.
- Nếu góp ý cho dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, ông muốn nhấn mạnh những điểm gì về kinh tế?
Tôi sẽ tập trung vào ba vấn đề lớn. Thứ nhất, chính sách tài khóa phải đi tiên phong. Không phải chi tiêu dàn trải, mà là tập trung nguồn lực cho các dự án hạ tầng trọng điểm, những công trình có sức lan tỏa lớn đến toàn nền kinh tế. Quan trọng hơn, phải tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân trong nước cùng tham gia, thay vì chỉ dựa vào khối doanh nghiệp nhà nước. Đây là cách vừa thúc đẩy tăng trưởng, vừa nuôi dưỡng khu vực tư nhân thành động lực nội sinh thật sự.
Thứ hai, chính sách tiền tệ cần có tính độc lập cao, không bị chi phối bởi mục tiêu tăng trưởng ngắn hạn. Chính sách tiền tệ nên được trao cho Ngân hàng Nhà nước sự độc lập và linh hoạt cần thiết, để cơ quan này thực hiện tốt chức năng ổn định kinh tế vĩ mô và bảo toàn sức mua của đồng tiền. Khi nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng nóng, hoặc khi lạm phát manh nha quay lại, chính sách tiền tệ phải có công cụ can thiệp kịp thời, chặn đứng nguy cơ bong bóng tài sản và nợ xấu.
Và cuối cùng, không thể bỏ qua cải cách thể chế, cải cách thuế và môi trường kinh doanh. Chúng ta cần một môi trường minh bạch, ít rào cản, ít chi phí không chính thức để doanh nghiệp tự tin đầu tư, mở rộng sản xuất. Thuế thu nhập cá nhân cũng cần được thiết kế lại theo hướng ưu tiên cho người lao động, giảm gánh nặng chi tiêu sinh hoạt, đồng thời điều tiết hành vi đầu cơ tài sản gây bong bóng giá và rủi ro cho hệ thống tài chính. Nếu làm được điều này, tiêu dùng trong nước sẽ được khơi thông, doanh nghiệp có thêm thị trường, còn người dân được hưởng thành quả phát triển một cách công bằng hơn.
Tóm lại, tăng trưởng bền vững phải dựa trên năng lực sản xuất thực, trên thể chế minh bạch, nhân lực chất lượng cao, cùng với những chính sách tài khóa.
- Xin trân trọng cảm ơn ông!
Nguồn: https://nhandan.vn/pgs-ts-pham-the-anh-truong-khoa-kinh-te-hoc-dai-hoc-kinh-te-quoc-dan-tang-truong-cao-phai-di-cung-on-dinh-vi-mo-post916619.html
