Hồi kí tản mạn về một hành trình tri thức: những vấn đề về hiện trạng của kinh tế học (Phần 1)

Hồi kí tản mạn về một hành trình tri thức: những vấn đề về hiện trạng của kinh tế học (Phần 1)

Ghi chú của tác giả

János Kornai là Giáo sư Emeritus [Giáo sư về hưu từ vị trí cơ hữu] của Đại học Harvard, và là Giáo sư Emeritus danh dự của Đại học Corvinus Budapest. Sinh năm 1928, từng là một nhà báo theo chủ nghĩa Marx vào đầu những năm 1950, ông bị cách ly sau cuộc cách mạng Hungary vào năm 1956, và đã bắt đầu lại sự nghiệp của một nhà nghiên cứu vào đầu những năm 1960, trong khi vẫn bị cấm giảng dạy. Sau một thời gian nghiên cứu lý thuyết tân cổ điển đã khiến ông trở nên nổi tiếng ở phương Tây, ông đã phát triển một khung phân tích quan trọng về lý thuyết tân cổ điển trong tác phẩm Anti-Equilibrium (Chống Cân Bằng - 1971). Ông tập trung phân tích nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, đạt đỉnh cao sự nghiệp bằng tác phẩm Economics of shortage (Kinh tế học của sự thiếu hụt - 1980), công trình này có tầm ảnh hưởng từ Đông sang Tây, và bằng kiệt tác thứ hai mang tên The socialist system (Hệ thống chủ nghĩa xã hội - 1992). Vào năm 1986, ông trở thành Giáo sư của Đại học Harvard, và vẫn dành thời gian cho hoạt động nghiên cứu ở Budapest. Ông về hưu từ vị trí ở Harvard vào năm 2002, và từng là Thành Viên Thường Trực của Collegium Budapest trong giai đoạn 2002-2011. Sau sự chuyển đổi các hệ thống xã hội chủ nghĩa vào năm 1989, nghiên cứu của ông tập trung vào sự thay đổi hệ thống trong thế giới hậu chủ nghĩa xã hội, với những tác phẩm như The Road to a Free Economy (Con đường dẫn tới nền kinh tế tự do - 1990), Highway and Byways (Cao tốc và đường vòng - 1995), Struggle and Hope (Đấu tranh và hy vọng - 1997), Welfare, Choice, and Solidarity in Transition (Phúc lợi, lựa chọn, và thống nhất trong thời kỳ quá độ - đồng tác giả với Karen Eggleston, 2001), From Socialism to Capitalism (Từ chủ nghĩa xã hội đến chủ nghĩa tư bản - 2008). Tác phẩm của ông viết về chủ nghĩa tư bản có tựa đề Dynamism, Rivalry, and the Surplus Economy (Thuyết động lực, sự cạnh tranh, và nền kinh tế thặng dư) đã được xuất bản vào tháng 12 năm 2013. Tự truyện của ông mang tên By Force of Thought: Irregular Memoirs of an Intellectual Journey (Bằng sức mạnh tư duy: hồi ký tản mạn về một hành trình tri thức - 2006a), một tác phẩm xuất sắc được hoan nghênh rộng rãi đã xuất hiện bằng tiếng Pháp vào năm 2014 với tựa đề À la force de la pensée, Autobiographie irrégulière, L’Harmattan. Cuộc phỏng vấn này trao đổi cụ thể những vấn đề được thảo luận trong hồi ký của ông.

1. Hệ chuẩn hệ thống

RR: Sự nghiệp của ông là một đóng góp vĩ đại cho cái mà ông gọi là “hệ chuẩn hệ thống”.1 Ông định nghĩa những phương diện khác nhau của hệ chuẩn này như thế nào? Tại sao nó lại quan trọng? Tại sao ngày nay nó có vẻ là một lĩnh vực thứ yếu, sau khi đã đóng vai trò quan trọng trong tư tưởng kinh tế của 150 năm trước?

János Kornai: Phương diện quan trọng nhất được nhấn mạnh bởi chính tên gọi: những ai sử dụng cách tiếp cận này quan tâm nhiều hơn đến những hệ thống to lớn, phức tạp, một khối có cấu trúc phức tạp, nghĩa là cả một hệ thống thay vì các thành phần của nó. Các thành phần tác động lẫn nhau như thế nào? Chúng sinh ra hệ thống các luồng vật chất và thông tin giữa nhiều mắc xích và bộ phận như thế nào? Đó là những câu hỏi mà những người tư duy theo hệ chuẩn hệ thống tìm kiếm câu trả lời. Để cho dễ hiểu thuật ngữ, tôi nhắc đến một số nhân vật mà theo tôi quan điểm của họ có liên quan đến thuật ngữ hệ chuẩn hệ thống: Adam Smith, Marx, Mises, Hayek, Schumpeter và Károly Polányi. Danh sách bao gồm những tên tuổi lớn của lịch sử các tư tưởng, tuy cách tiếp tận về chính trị và các hệ thống giá trị của họ có khác biệt rõ rệt, nhưng các phân tích của họ có cùng một đặc điểm cực kỳ quan trọng: mối quan tâm của họ không dành cho những vấn đề thành phần, mà dành cho “các hệ thống lớn,” lý thuyết chung, tổng thể về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, nhà nước và thị trường.

Tôi không nâng hệ chuẩn hệ thống lên thành một phân tích thay thế cho các phân tích thành phần - tuyệt nhiên là cần phải nghiên cứu cẩn thận 1001 những vấn đề “nhỏ.” Nhưng 1001 mảnh khảm muôn hình vạn trạng đương nhiên không vẽ nên một bức tranh tổng thể. Việc này đòi hỏi một cách tiếp cận tổng hợp, một “tầm nhìn” (vision) có thể khám phá ra cái tổng thể từ nhiều cái thành phần. (Tôi vận dụng từ tầm nhìn theo nghĩa này từ cách sử dụng của Schumpeter.)

Tôi cũng có ấn tượng rằng nghiên cứu thực hiện theo tinh thần của hệ chuẩn hệ thống đã trở nên không được coi trọng. Có nhiều yếu tố phía sau vấn đề này mà tôi muốn chỉ ra chỉ một yếu tố: xu hướng chung của ngành là có ác cảm, thậm chí hết sức coi thường nghiên cứu về “những vấn đề lớn lao.” Trong một cuộc trao đổi riêng, một kinh tế gia có uy tín người Mỹ đã mô tả hoài bão nghiên cứu của ông ta như sau: “Thà để mọi người góp thêm một viên gạch vào tòa nhà, bởi vì việc này ít ra cũng là đóng góp hữu hình, hơn là vật lộn để tạo ra bản vẽ cho một công trình khổng lồ, phức tạp.” Có quan điểm phổ biến cho rằng các nhà nghiên cứu chỉ nên nghiên cứu những vấn đề mà họ có khả năng cung cấp những câu trả lời chính xác, có căn cứ, dứt khoát, thật không đáng để đặt câu hỏi cho những vấn đề mà không thể có câu trả lời rõ ràng, mặc dù các câu hỏi có thể thú vị và quan trọng. Nhưng những câu hỏi hóc búa đè nặng về các hệ thống rộng lớn vẫn canh cánh bên chúng ta. Sẽ là một sự xấu hổ nếu mọi người làm ngơ trước những câu hỏi đó và không ai tìm cách kết hợp các công cụ khoa học và trực giác để tìm hiểu chúng và chí ít là tìm cách tiếp cận những câu trả lời trí tuệ dành cho chúng.

Đối với tôi việc nhiều nhà kinh tế thành công trong việc phát minh ra các mô hình toán học phục vụ cho mục đích phân tích lý thuyết và sử dụng các phương pháp kinh trắc để chứng minh những điều họ quả quyết là một tiến bộ hết sức quan trọng. Tôi cảm thấy tiếc khi có một số người thành công hóa ra tự phụ, họ coi thường những người nghiên cứu những vấn đề mà không thực sự dễ dàng tiến hành nghiên cứu bằng những công cụ được họ sử dụng.

2. Dòng chính và yêu cầu phải có sự đa nguyên

RR: Ông thường tự nhận mình đứng nửa trong nửa ngoài kinh tế học dòng chính. Chúng tôi quan sát thấy một xu hướng “chuẩn hóa” đang tăng tốc trong thế giới kinh tế học ngày nay, mà dường như rốt cuộc không bị quấy rầy bởi những thất bại hay những định hướng sai lầm quan trọng. Xu hướng này được đặc trưng bởi sự liên quan độc quyền đến hình thức hóa và định lượng, mối liên hệ với hiện thực hoặc lịch sử vốn ngày càng cách biệt, sự chia tách với các khoa học xã hội khác (có thể ở dạng chủ nghĩa đế quốc kinh tế học), sự thiếu thốn các nền tảng triết lý và đạo đức, tính đồng nhất trong các tiêu chí xuất bản mang tính rút gọn, việc đánh giá chất lượng nghiên cứu thường bị giới hạn trong các chỉ báo trích dẫn. Nhiều luồng tư tưởng phi dòng chính đã đặt ra nhu cầu phải có sự đa nguyên như là một phản ứng chống lại các xu hướng giản hóa và độc quyền mạnh mẽ của kinh tế học dòng chính. Ông nghĩ như thế nào về tình trạng này?

János Kornai: Anh đã nhập năm hay sáu câu hỏi thành một, mà mỗi câu hỏi cần phải có một câu trả lời cụ thể.

Anh đã nêu câu hỏi của mình một cách khéo léo khi anh đề cập đến “các xu hướng độc quyền”. May mắn là không có sự độc quyền tư tưởng nào theo đúng nghĩa của cụm từ này có thể áp dụng trong thế giới dân chủ. Tôi đã sống dưới chế độ độc tài cộng sản qua nhiều thập kỷ và đã có thể quan sát tỉ mỉ việc một hệ tư tưởng nắm thế độc quyền và vị trí độc tôn của nó được áp đặt bằng quyền lực chính trị và các tổ chức vũ lực là như thế nào. Kinh tế học dòng chính không giữ thế độc quyền theo nghĩa đó. Những người ủng hộ các trường phái tư tưởng [kinh tế] khác có thể xuất bản hợp pháp: họ có các tạp chí của họ, sách của họ được xuất bản, và không ít người trong số họ giảng dạy ở các trường đại học. Chúng ta đã bắt đầu bằng thuật ngữ của cấu trúc thị trường, chúng ta có thể tiếp tục gọi tình trạng này là độc quyền nhóm mà chúng ta thấy trước mắt, theo đó một trường phái duy nhất chi phối mạnh mẽ thị trường các ý tưởng và tri thức, và dồn các đối thủ cạnh tranh vào phạm vi nhỏ hẹp còn lại.

Hẳn nhiên đây không phải là vấn đề độc quyền hệ tư tưởng được áp đặt bởi quyền lực chính trị hay các tổ chức vũ lực, mà là vấn đề về sự thống trị do nhiều cơ chế gián tiếp mang lại. Những nhà kinh tế dòng chính lão luyện chọn những người trẻ có cùng quan điểm với họ để tuyển dụng và cất nhắc trong giới hàn lâm; các bài báo của họ được chấp nhận và đăng trên các tạp chí hàng đầu, vốn có tác động mạnh mẽ đến sự nghiệp hàn lâm của họ. Tuy nhiên, tất cả những bình luận trên phải đủ điều kiện: các nhà kinh tế dòng chính phần lớn (không phải nhờ có đặc quyền) được bổ nhiệm và các nghiên cứu của họ phần lớn được công bố. Đứng ngoài vòng không phải là bất khả, nhưng những ai làm như vậy đối mặt với nhiều trở ngại.

Tôi có nhiều phản đối đối với các phát biểu, phương pháp luận, và cũng như là triết lý khoa học nền tảng của kinh tế học dòng chính, mà tôi sẽ đề cập sau trong cuộc trao đổi của chúng ta. Giờ đây khi chúng ta mới bắt đầu trao đổi, tôi muốn đưa ra một số lời bình không phải về các vấn đề lý thuyết hay phương pháp, mà là về thái độ và tấm thế của những người xây dựng lý thuyết và áp dụng phương pháp.             

Không phải trường phái tri thức nào cũng có, hoặc có thể có sự giải thích hoàn hảo, trọn vẹn về các hiện tượng. Điều này buộc các nhà khoa học cẩn thận phải là những người nhũn nhặn và khiêm cung. Nếu rốt cuộc một nhà nghiên cứu khác hay thành viên của một trường phái khác nói đúng thì chuyện gì xảy ra? Nếu người đó đã thấy và hiểu những thứ mà tôi không nhận ra thì sao? Nhiều người theo kinh tế học dòng chính có chiều hướng quá tự tin và tự mãn. Sự đa nguyên, sự đa dạng và sự cạnh tranh là cần thiết trong chính trị, trong nền kinh tế, và cả trong lĩnh vực tư tưởng. Cho dù là vấn đề nghệ thuật hay triết học hay nghiên cứu khoa học theo nghĩa hẹp, sự đa nguyên, sự cạnh tranh giữa các cách tiếp cận, các hệ chuẩn và các trường phái, là cần thiết để tiến bộ. Rất cần những nhân vật hàng đầu thuộc dòng chính ủng hộ sự đa nguyên. Tôi biết từ kinh nghiệm may mắn của bản thân rằng một số ít những tên tuổi lớn [thuộc dòng chính] - Arrow, Koopmans, Samuelson, và Solow - có khả năng có sự rộng lượng đó, và đã khuyến khích tôi và những người khác phản biện các ý tưởng của họ. Có vẻ như chính những nhân vật cấp trung có thâm niên là những người không dám đương đầu với sự cạnh tranh của các trường phái.

Kinh nghiệm của Đông Âu là một ví dụ điển hình về tác hại do các tông đồ hạng xoàng của kinh tế học dòng chính gây ra. Mặc dù trong thế giới cộng sản trước giai đoạn 1989-1990 có một số người ủng hộ kinh tế học dòng chính phương Tây, sự ảnh hưởng của trường phái này tăng với tốc độ vũ bão sau biến cố chính trị lớn, là khi vị trí độc tôn của hệ tư tưởng Marx-Lenin được nhà nước bảo hộ đã bất ngờ sụp đổ. Chẳng may, bên cạnh các nhà kinh tế thiết tha tìm hiểu kinh tế học đương đại thực thụ là như thế nào, những kẻ cuồng tín cũng xuất hiện; các giáo sư, các nhà nghiên cứu và các nhà hoạch định chính sách kinh tế lại “sùng đạo hơn cả Đức Giáo Hoàng”, theo tục ngữ Hungary; giáo điều hơn, lý thuyết suông hơn nhiều đồng nghiệp phương Tây của họ. Các bài báo được xuất bản đưa ra luận điệu rằng không cần thiết sáng tạo ra bất kỳ ý tưởng, khái niệm hay công cụ phân tích mới nào phục vụ cho nghiên cứu về các hệ thống khác với nền kinh tế thị trường phổ biến, truyền thống, ví dụ như chủ nghĩa xã hội cổ điển và chủ nghĩa xã hội cải cách, sự chuyển đổi hậu chủ nghĩa xã hội, các thị trường mới nổi và v.v.. Họ đã đề xuất: chỉ việc tiếp nhận các công cụ cũ và phổ biến trong sách giáo khoa kinh tế học dòng chính, và thế là anh có tất cả các công cụ để hiểu tất cả các hiện tượng, cũ lẫn mới, bất kể chúng xuất hiện ở đâu và khi nào. Thái độ này sinh ra sự lười biếng về trí tuệ, sự bắt chước máy móc các lối tư duy có sẵn tại thời điểm vô cùng cần thiết phải canh tân tư tưởng kinh tế, vì sự mới lạ và vì sự độc đáo.

Tôi cũng muốn hồi đáp một nội dung khác của câu hỏi, về mối quan hệ giữa kinh tế học và các khoa học xã hội khác. Một mặt, các nhà kinh tế chẳng mấy khi sử dụng các ngành “tương cận”, gần nhất là các kết quả nghiên cứu và phương pháp luận của xã hội học, khoa học chính trị và lịch sử. Sự tách biệt này có thể được thấy rõ trong sự phân bổ các trích dẫn chẳng hạn. Mặt khác (và câu hỏi đã ám chỉ điều này), người ta thấy khát vọng “đế quốc” của kinh tế học: một sự bành trướng hung hăng đến kỳ lạ và sự áp đặt quan điểm và phương pháp luận của kinh tế học lên các khoa học xã hội khác. “Chủ nghĩa đế quốc” như vậy hẳn nhiên cần phải có hai phe: những người chinh phục và những người tự nộp mình cho sự chinh phục. Người ta thường xuyên phát hiện ngày càng nhiều những nhà biên tập và những người phản biện của các tạp chí khoa học chính trị hay xã hội học đã tiếp nhận toàn bộ lý thuyết và khung khái niệm của các nhà kinh tế về lựa chọn duy lý và áp đặt nó lên các đồng nghiệp của họ. Nhưng sự thống trị hoàn toàn cũng đòi hỏi phải có nhiều người được chuẩn bị để dấn thân theo sự thích ứng mù quáng bất chấp những suy xét và sự miễn cưỡng trong thâm tâm của họ. Ví dụ, họ bám vào một mô hình, khéo léo hay vụng về, hoặc một phép tính kinh trắc nào đó, chuyên nghiệp hay nghiệp dư, và áp chúng vào một nghiên cứu mà những công cụ lý thuyết này lại có sức giải thích kém.

RR: Trong cuốn tự truyện của ông, trong khi gợi lại những chỉ trích cơ bản mà ông nhắm vào lý thuyết tân cổ điển vào năm 1971 (trong cuốn Anti-Equilibrium - Chống Cân Bằng), và trong khi đóng góp các ý tưởng phản biện mới, ông đã viết như sau khi nhắc đến các thuật ngữ của Lakatos, “Nó không phải là một chương trình khoa học suy biến mà một chương trình vẫn còn có thể đứng vững được”2. Tôi cho rằng chương trình đó thực sự giống như một chương trình khoa học suy biến của trường phái Lakatos, nền tảng cốt lõi của chương trình đã bị lung lay từ lâu và sự phát triển các giả thuyết phụ đã chiếm thế thượng phong, mà không mở rộng thêm sức mạnh giải thích của chương trình - nhưng quyền bá chủ của nó chưa bị thách thức bởi bất kỳ chương trình khoa học cấp tiến mới nổi nào. Trong trường hợp này thì nó vẫn còn “có thể đứng vững được”, nhưng không có “tiến bộ”. Ông có đồng ý với sự phân biệt này không?

János Kornai: Tôi không muốn đưa ra đánh giá phiến diện về tình trạng tri thức của ngành chúng ta. Mặc dù tôi soi kinh tế học dòng chính bằng tư duy phê phán, tôi không xem kinh tế học dòng chính là cứng nhắc, “rối rắm,” hay bất động. Kinh tế học dòng chính bao gồm một số ý tưởng mới và thú vị xuất hiện trên đường chân trời tri thức, hay tôi có thể nói rằng kinh tế học dòng chính “phong thánh” và đưa những ý tưởng đó vào đề cương bài giảng bắt buộc. Ví dụ, điều này đã xảy ra với khái niệm thông tin và các nghiên cứu có liên quan chặt chẽ đến thông tin. Kinh tế học dòng chính cũng áp dụng tâm lý học và tích hợp hiện tượng các kỳ vọng.

Tôi không chấp nhận bất cứ sự đánh giá lưỡng phân kiểu “đánh dấu vào một trong hai ô” nào mà theo đó một chương trình khoa học hoặc là phát triển hoặc là suy biến. Phát biểu đó quá nặng, thiếu điều chế cho phù hợp. Có các trạng thái trung gian và hỗn hợp. Sự phát triển của kinh tế học dòng chính đã không suy biến theo kiểu mà kinh tế chính trị của Marx đã từng suy biến trong khối Xô Viết, khi nó trở thành hệ tư tưởng chính thức của chế độ độc tài cộng sản dưới cái tên “Chủ nghĩa Marx-Lenin”. Kinh tế học dòng chính có phát triển, nhưng không đủ nhanh. Nó hiện có phần cởi mở, nhưng có thể cởi mở thật nhiều hơn thế. Nó có nhiều trở lực, sinh ra từ sự lười biếng về trí tuệ, xu hướng lặp lại chính mình, và ác cảm với các ý tưởng mới. Cuối cùng, kinh tế học dòng chính là tù nhân của mô hình đặc biệt về lý thuyết ra quyết định, mô hình lựa chọn duy lý của chính nó, xem mô hình đó như là một cách giải thích phổ quát.

Vì kinh tế học dòng chính quả thực có chấp nhập một số ý tưởng mới thiết yếu, nên thật khó mà vẽ đường phân định giữa các ý tưởng kinh tế học “chính thống” và “phi chính thống”. Đường phân định không cố định. Trước đây (khi tôi đang viết cuốn Anti-Equilibrium - Chống cân bằng) nó còn là một ý tưởng không thuộc dòng chính nhấn mạnh các xung đột giữa các tác nhân. Ngày nay, khi mọi kinh tế gia hàn lâm khác đều sử dụng các mô hình lý thuyết trò chơi, thì làm như vậy hầu như là không có gì đặc biệt.

Mọi người vẽ đường phân định không ai giống ai. Một tiêu chí đặc biệt quan trọng theo quan điểm của tôi là thiết lập nền tảng vi mô cho lý thuyết ra quyết định mà nhà nghiên cứu chấp nhận. Có phải điểm khởi đầu là cá nhân có thứ tự ưa thích nhất quán, tối đa hóa hàm lợi ích, và đạt được quyết định tối ưu? Nếu vậy (có một số ngoại lệ) anh ta hoặc cô ta thuộc về trường phái dòng chính. Nếu không có sự nhấn mạnh vào giả định này, thì cá nhân đó có khả năng (nhưng không chắc chắn) tách khỏi dòng chính hoàn toàn hoặc một phần.

Có những nhà giáo hà khắc áp đặt quy tắc của trường phái dòng chính. Dù bạn nói gì, dù chủ đề có là sự biến động của nền kinh tế vĩ mô hay tác động qua lại giữa lạm phát và thất nghiệp đi chăng nữa, họ cũng nhất quyết buộc bạn trình bày nền tảng vi mô của bạn là gì. Và điều bạn trình bày chỉ có thể được chấp nhận là nền tảng vi mô nếu bạn có thể suy diễn làm thế nào mà những người ra quyết định tối ưu theo đuổi lợi ích cá nhân đưa đến một cách chính xác trạng thái mà chúng ta trải nghiệm ở tầm vĩ mô. Họ kết luận nếu bạn không thể tạo ra một nền tảng vi mô như vậy, lý luận của bạn là ad hoc và không thể được xem là kinh tế học thực thụ.     

Nhưng nhiều câu hỏi ngờ vực có thể được đặt ra một cách chính đáng. Điều gì xảy ra nếu người ra quyết định không duy lý một cách nhất quán? Điều gì xảy ra nếu anh ta hoặc cô ta hành động ngược lại với các lợi ích dài hạn của mình để có được lợi ích ngắn hạn? Hay điều gì xảy ra nếu các sở thích của anh ta hay cô ta đột ngột thay đổi trong cơn hoảng loạn? Điều gì xảy ra nếu một tình huống ra quyết định hoàn toàn khác biệt xuất hiện, mà theo đó không có các sở thích cho trước và người ra quyết định phải ứng biến? Ở đây tôi đang phác họa một số tình huống ra quyết định mà mô hình ra quyết định tiêu chuẩn không sử dụng được.

Vẻ lạnh lùng và đôi mày nhướng của ông thầy, sự thiết lập tùy tiện các giới hạn lý thuyết, sự chế nhạo hời hợt nhắm vào các ý tưởng ad hoc, xua đuổi nhiều người rời xa các nghiên cứu vô tư tự nguyện và phổ biến các ý tưởng nguyên gốc. May mắn là nó không xua đuổi hết tất cả mọi người.

Có nhu cầu to lớn về sự đa nguyên tri thức trong lĩnh vực này như chúng ta đã bàn lúc nãy. Chúng ta không thể xây dựng chống lại thứ tự tiên đề hoá sở thích được tôn vinh thành chân lý, lý thuyết đặc biệt, phi tổng quát này, bất cứ đối thủ cạnh tranh nào đầy đủ hơn hay thực sự phổ quát hơn. Sự đa dạng không có giới hạn của hành vi con người và các mối quan hệ của con người khiến cho việc xây dựng một mô hình ra quyết định phổ quát là bất khả thi. Nhiều mô hình nhấn mạnh nhiều nét tiêu biểu của hành vi và rút ra kết luận từ chúng mà bỏ qua các đặc điểm quan trọng. Đó là điều nên làm. Đối với tôi, sự đa nguyên cũng là để cho học giả mô tả các quá trình vĩ mô khác nhau và thực hiện các phân tích xứng đáng về các quá trình vĩ mô mà không thắc mắc về các động cơ khuyến khích các cá nhân tham gia.

3. Các ý tưởng, các lợi ích, các thể chế

RR: Ông nhấn mạnh sức mạnh của các ý tưởng - được thể hiện trong tựa đề của cuốn tự truyện của ông, By the Force of Thought (Bằng sức mạnh của tư duy); khi ông bàn về những trở ngại mà các ý tưởng phi truyền thống trong kinh tế học gặp phải, ông nói rằng “một lý thuyết mới có thể thay thế một lý thuyết cũ chỉ khi các kinh tế gia tin chắc rằng lý thuyết đó có sức sống hơn.” Vai trò tương đối giữa các lợi ích và các ý tưởng trong lịch sử gây nhiều tranh cãi. Weber đã viết “Không phải các ý tưởng, mà chính là các lợi ích về vật chất và lý tưởng, trực tiếp chi phối hành vi của con người. Hơn nữa, ‘các hình ảnh của thế giới’ vốn được tạo ra bởi các ‘ý tưởng’ đóng vai trò như người bẻ ghi đường sắt đã rất thường xuyên xác định đường lối hành động được thúc đẩy bởi tính động của lợi ích.” Keynes cho rằng “sức mạnh của quyền lợi được thổi phồng quá mức so với sự xâm lấn dần dần của các ý tưởng.” Trong lĩnh vực kinh tế học của chúng ta, mối quan hệ qua lại giữa các lợi ích và các ý tưởng là không thể bỏ qua, khi, một mặt, chúng ta xét đến các mối quan hệ giữa lý thuyết dòng chính và sự gắn kết về thể chế của lý thuyết dòng chính (trong tổ chức các trường đại học, trong các dạng thức cạnh tranh giữa các kinh tế gia và các trường phái, trong phương thức bổ nhiệm các học giả, trong các phương thức tổ chức của ngành), và mặt khác, tầm quan trọng của các lợi ích đang tiến triển trong hệ thống kinh tế học thực sự - lấy ví dụ như vai trò của tài chính trong những thập kỷ gần đây.

János Kornai: Chúng ta hãy phân biệt hai câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất là điều gì kích thích các chủ thể thực sự trong nền kinh tế. Câu hỏi thứ hai là điều gì thúc đẩy các nhà nghiên cứu và các giáo sư mô tả và phân tích nền kinh tế.

Trả lời câu hỏi thứ nhất, tôi cho là phiến diện khi phát biểu rằng con người chủ yếu bị kích thích bởi các lợi ích. Điều này đã có vấn đề vì mỗi người có nhiều “lợi ích kinh tế” thường xuyên mâu thuẫn nhau. Lợi ích nhất thời, lợi ích ngắn hạn, lợi ích dài hạn? Một người có thể đảm trách nhiều nhiệm vụ: nhân viên của một công ty, ông chủ của một nhân viên trong nước, chủ sở hữu cổ phiếu mua từ tiền tiết kiệm hay từ sự “đầu cơ” tài chính khả dĩ nào đó. Một người trong cùng một lúc có thể tham gia nền kinh tế chính thức, nền kinh tế bán chính thức và nền kinh tế ngầm. Chúng ta đo lường thành công về tiền bạc, quyền lực có được, thanh thế hay uy tín? Chúng ta theo đuổi lợi ích của bản thân hay chú ý đến lợi ích của gia đình riêng hay người thân họ hàng? Vì vậy chúng ta gặp rắc rối với định nghĩa về “lợi ích”.

Bây giờ chúng ta bàn về vai trò của các ý tưởng. Người ta thường trích dẫn nhận xét này của Bertolt Brecht: “Erst kommt das Fressen, dann kommt die Moral.” (First comes the grub, then the morality - Có thực mới vực được đạo). Không phải với ai cũng vậy, không phải lúc nào cũng đúng! Nội dung mà anh trích dẫn của Keynes thể hiện trí tuệ khôn ngoan của con người. Đối với mọi nhà tâm lý học, nhà sử học, và nhà văn thì hiển nhiên là vô lý khi coi thường sức mạnh của các ý tưởng. Marx và Engels có hành động vì lợi ích kinh tế của riêng họ không? Tôi không muốn liệt kê tất cả các ví dụ. Đối với tôi, rõ ràng là con người bị kích thích đồng thời bởi các lợi ích khác nhau, đôi lúc lợi ích này tăng cường cho lợi ích kia, đôi lúc lại đối lập nhau mà theo đó lợi ích này hay lợi ích kia chiếm ưu thế. Hàng triệu cách kết hợp tạo nên hiệu ứng kết hợp phức tạp này có thể thay đổi theo thời gian do sự đa dạng của hành vi cá nhân trong cuộc đời của cá nhân.

Đối với những nhà kinh tế hàn lâm thì cũng vậy. Họ dĩ nhiên không phải là thần thánh, nhưng hầu hết đều rất vui vẻ giữ các vị trí hàn lâm, và điều này cũng kết nối họ với “giới quyền uy”. Việc vẫn còn xuất hiện một sự gắn kết chặt chẽ là không hiếm. Nó có thể ảnh hưởng cách suy nghĩ của nhà kinh tế, theo hướng tốt hơn hoặc tệ hơn, nếu người đứng đầu ngành kiêm vị trí giám đốc hoặc cố vấn trong một doanh nghiệp lớn hoặc thậm chí là chủ một doanh nghiệp. Tuy vậy, bất cứ nhà xã hội học về khoa học nào tìm cách truy nguyên các cuộc tranh biện giữa các trường phái của các kinh tế gia nhắm vào các yếu tố đó sẽ không thành công. Ngay cả trong cuốn Anti-Equilibrium (Chống cân bằng), tôi đã phản đối vị trí chính thức của các nhà sử học lý thuyết giảng dạy dưới hệ thống cộng sản, họ là những người gán cho lý thuyết cân bằng tổng quát cái tên “tư sản”. Nói một cách khái quát hơn, tôi cho là không hợp lý khi thấy những tuyên truyền viên hay những người bảo vệ chủ nghĩa tư bản trong số các nhà kinh tế dòng chính và những người chỉ trích hay những kẻ thù cực đoan của chủ nghĩa tư bản trong số các nhà kinh tế phi chính thống. Không có sự đánh đồng đơn giản như vậy giữa triết lý khoa học của nhà kinh tế và quan điểm chính trị của họ.

Các nhà kinh tế, các nhà sử học lý thuyết, và các nhà xã hội học cần hợp tác nghiên cứu tác động của lợi ích kinh tế và ý tưởng lên tư duy, lòng trung thành và các trường phái của người hoạt động trong ngành kinh tế học. Đây là một nhiệm vụ thực nghiệm thú vị phải được thực hiện một cách vô tư, hoàn toàn không có những công thức đơn giản và những định kiến.

RR: Hệ chuẩn hệ thống có những mối liên hệ chặt chẽ với tư duy thể chế trong lý thuyết kinh tế học. Điều này được biểu thị rõ ràng trong kiệt tác của ông, The Socialist System (Hệ thống xã hội chủ nghĩa) - Tôi chỉ nhấn mạnh, ví dụ, phương pháp tiếp cận của ông đối với nhiều cơ chế phối hợp khác nhau. Sự thay đổi hay “chuyển đổi” (transition) hệ thống là một yếu tố trong sự chuyển hướng chậm trễ về thể chế của kinh tế học dòng chính, vốn mang lại những kết cục tích cực lẫn tiêu cực. Một mặt, ý kiến cho rằng “thể chế là quan trọng” đã được đưa vào quan điểm đã được xác lập từ trước; nó thậm chí còn trở nên khá thời thượng trong một thời gian. Mặt khác, quan điểm quy giản luận mạnh mẽ đã phát triển về mặt tìm kiếm những “thể chế tốt” riêng lẻ như là những giải pháp hữu hiệu (cách tốt nhất) cho các vấn đề hợp tác hay phát triển trong các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Trong khi tìm kiếm các thể chế có “chất lượng” cao, vô số những nghiên cứu “so sánh” sử dụng công cụ kinh trắc đã hoàn toàn bỏ sót sự phụ thuộc lẫn nhau về mặt lịch sử (sự tương đồng hay bổ sung) của các thể chế trong bối cảnh của các quốc gia, sự phụ thuộc mang tính hệ thống về bối cảnh. Ông có đồng ý rằng tính chính đáng mà cách tiếp cận thể chế trong kinh tế học đạt tới, mà ông đã có đóng góp trong thời gian dài, là họa phước khó lường không?

János Kornai: Tôi cảm thấy rằng những công cụ mà trường phái thể chế và những nghiên cứu của riêng tôi đề nghị là hữu ích đối với những người tìm cách xem xét một cách khách quan sự đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội, sự chuyển đổi thành chủ nghĩa tư bản, và sự phát triển của hệ thống mới, và cung cấp một sự mô tả và phân tích tích cực về chúng. Có chút gì đó mỉa mai khi thấy một giáo sư nổi tiếng ở phương Tây, người mà ở trong nước rao giảng về các mô hình toán học dòng chính và không công nhận những người theo trường phái thể chế với thái độ khinh miệt của giới quý tộc đối với những kẻ hạ đẳng, thậm chí không mang theo trong va li của mình bộ công cụ mà ông ta dùng ở trong nước. Trong khi ở đây và nói chuyện với những người đứng đầu quốc gia và những công dân bình thường ở những quốc gia ông ta đến thăm, ông ta nhận ra rằng các sự kiện cần được xem xét theo một cách khác: các thể chế chính trị, kinh tế và văn hóa đóng một vai trò quyết định; sự đánh giá nghiêm túc nào cũng phải tính đến các yếu tố tác động phía sau hành động của con người, sự đa dạng của các động cơ khuyến khích, sự “không đồng nhất” của hành vi đến độ vô tình bị bỏ qua trong các mô hình lý thuyết. Ví dụ, tôi như nhận được phần thưởng cho cá nhân mình khi thấy các đồng nghiệp vốn không biết nhiều về nghiên cứu của tôi bắt đầu áp dụng hệ thống các khái niệm về “ràng buộc ngân sách mềm”. Hiếm có báo cáo nào ở phương Tây viết về các chuyển biến ở Đông Âu mà không sử dụng thuật ngữ này và rút ra nhiều kết luận chính sách kinh tế từ nó.

Điều này đưa chúng ta đến một khía cạnh khác của những câu hỏi này: các nhà kinh tế nên ứng xử như thế nào khi được yêu cầu tư vấn về những việc cần làm? Tối đa hóa phúc lợi xã hội là một “tiêu chí tối ưu” khá mơ hồ, theo đó không có kết luận chính sách kinh tế thực tiễn nào được rút ra bằng phương pháp suy diễn. Các nhà kinh tế tự huyễn hoặc mình khi họ trấn an chính họ và công chúng, có thể có hoặc không chú ý đến họ, rằng họ có khả năng đưa ra những khuyến nghị khách quan với tư cách là một “chuyên gia” hay “một nhà khoa học”. Không có những kết luận khách quan trong các phân tích chuẩn tắc về thế giới. Điều được xem là tốt đẹp, hay tốt nhất, theo một tập các giá trị này, lại không tốt đẹp hay thậm chí có hại theo một tập các giá trị khác. Điều này tình cờ được các chính trị gia thành công nhận ra, một cách có ý thức hoặc theo bản năng: họ chỉ chấp nhận cho những ai đưa ra khuyến nghị theo ý họ làm cố vấn.

4. Nghĩ về Keynes

RR: Ông đề cập đến bộ tứ vĩ đại - nhưng hơi ngược đời - gồm Marx, Schumpeter, Keynes và Hayek, là những người có ảnh hưởng đến tư tưởng của ông. Tôi có cảm giác là Marx, Schumpeter và Hayek là những nguồn cảm hứng rõ rệt trong nghiên cứu của ông, nhưng vị trí của Keynes lại khá đặc trưng. Ông có cùng quan điểm với Keynes về mối liên hệ cấu trúc giữa chủ nghĩa tư bản và thất nghiệp, ông đối chiếu với mối liên hệ cấu trúc giữa chủ nghĩa xã hội và thiếu hụt để làm nổi bật những nét tương phản; sự đối lập này là trọng tâm của Kinh tế học về sự thiếu hụt. Nhưng sự so sánh sinh động nhất dường như là ở sự đánh giá chính bản thân chủ nghĩa tư bản, như là hệ thống ít tệ nhất có thể hình dung được, nhưng nhất định không phải là một trật tự tối ưu; phương pháp tiếp cận “mâu thuẫn và nan đề” của ông cũng tương tự như quan điểm của Keynes về những căng thẳng không tránh khỏi giữa các giá trị (như hiệu quả và đạo đức) dẫn đến việc tìm kiếm những thỏa hiệp có thể chấp nhận được, đối nghịch với quan điểm phi thực tế về “tất cả những điều tốt đẹp cùng tồn tại” (trích lời của Hirschman) hoặc đối nghịch với khái niệm tối ưu trong kinh tế học phúc lợi.    

János Kornai: Cảm ơn anh đã tập trung sự chú ý của người đọc vào danh sách bốn tên tuổi vĩ đại đó. Cả bốn chắc chắn có ảnh hưởng sâu và dài lâu đến tầm nhìn và tư duy của tôi về thế giới. Anh hỏi cụ thể về cảm hứng từ Keynes. Tôi hoàn toàn đồng ý với những gì anh nói về điều đó. Tôi bổ sung một vài nhận xét.

Như anh đề cập, kinh tế học về sự thiếu hụt xem đặc điểm thiếu hụt của chủ nghĩa xã hội và đặc điểm thất nghiệp của chủ nghĩa tư bản là cặp tương phản. Một bài điểm sách đã gọi bức tranh hệ thống mà tôi trình bày là “hình ảnh phản chiếu” của nền kinh tế theo trường phái Keynes, tương tự như chúng ta thấy hình ảnh ngược của chính mình trong gương.

Không bao lâu nữa trường Đại học Oxford sẽ xuất bản một cuốn sách mới của tôi, Dynamism, Rivalry, and the Surplus Economy (Thuyết động lực, sự cạnh tranh, và nền kinh tế thặng dư), trong cuốn sách này tôi thảo luận chi tiết lý thuyết về thất nghiệp của trường phái Keynes có quan hệ mật thiết với các ý tưởng của tôi về thị trường lao động và thị trường hàng hóa, dịch vụ như thế nào. Keynes và nhiều nhà kinh tế học vĩ mô khác tập trung vào sự dao động mang tính chu kỳ của thặng dư cung và thặng dư cầu. Đó là điều có thể hiểu được. Tôi chủ yếu quan tâm đến những đặc điểm thường trực của “các hệ thống lớn”, cũng là mối quan tâm của cả đời tôi. Tôi nghĩ sự thiếu hụt là một thuộc tính hệ thống thường trực của chủ nghĩa xã hội, và điều đối nghịch như thặng dư, năng lực sản xuất và cung cấp dịch vụ to lớn nhưng chưa tận dụng hết, và lượng tồn kho lớn, là đặc trưng hệ thống thường trực của chủ nghĩa tư bản.

Cho tôi nói lạc đề một chút. Khi anh đề cập đến các ý tưởng lý thuyết của Keynes trong câu hỏi, nó gợi cho tôi nhớ lại một khác biệt có liên quan giữa sự chấp nhận của Keynes đối với vai trò hoạch định chính sách thực tế và hoạt động của tôi. Tôi cũng đã thử thực hiện phép so sánh đó trong tự truyện của tôi. Keynes không chỉ dùng từ ngữ để xây dựng các lý thuyết của ông, mà còn dùng nhiều năng lượng để thuyết phục các nhà kinh tế, các nhà hoạch định chính sách, và công chúng về các quan điểm của ông. Tôi ngưỡng mộ Keynes, tôi kinh ngạc trước sự bền bỉ không mệt mỏi, sự linh động, và khả năng ngoại giao của ông. Sự nghiệp của tôi khác, vì tôi được sinh ra trong những hoàn cảnh khác nhau và bản tính tôi cũng khác. Keynes sẵn sàng dùng bữa trưa với các thủ tướng hay các bộ trưởng tài chính và thuyết phục họ về điều mà họ phải làm. Keynes, một cựu sinh viên của những ngôi trường hàng đầu, một học giả của Cambridge, một thành viên có sức ảnh hưởng lớn của Nhóm Bloomsbury, là người mà ở quê nhà tham gia các hoạt động chính trị cấp cao của nước Anh. Tôi tham gia vào chính giới Hungary như một người ngoài cuộc còn lúng túng và hiện tôi vẫn như vậy.

Keynes được sinh ra ở một đất nước may mắn. Mặc dù có lúc ông gặp bất đồng với các chính trị gia, những người cùng ông ăn trưa, hay những người cùng ông đối thoại, nhưng trong cách nghĩ họ chia sẻ với nhau nền tảng của các giá trị chính trị, trên hết là sự tôn trọng vô điều kiện đối với nền dân chủ. Quan điểm của một nhà kinh tế Trung Âu như tôi ở phương diện này cũng khác biệt lắm đấy! Kể từ khi tôi bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu của mình vào năm 1955, tôi đã sống qua 19 đời thủ tướng và 24 đời bộ trưởng tài chính.3 Trong nhiều thập kỷ, thế giới quan của các chính trị gia cấp cao đã hoàn toàn khác biệt so với thế giới quan của tôi. Điều này ít nhất đã thay đổi triệt để trong những năm 1989-1990. Trong hai thập kỷ tiếp theo cũng là khoảng thời gian tồn tại của nền cộng hòa thứ ba, các chính trị gia và tôi, với tư cách là một nhà kinh tế hàn lâm, đứng chung một trận tuyến, chúng tôi đều tin tưởng vào nền dân chủ, pháp quyền, và nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.4 Điều này đã có thể dẫn đến một mối quan hệ khăng khít, nhưng sự thật là, khả năng tiềm tàng này rất ít khi được hiện thực hóa. Hầu hết các chính trị gia được trao quyền quyết định đã không tò mò về quan điểm của tôi, vì họ nghi ngờ rằng quan điểm của tôi đi ngược lại các ý định của họ. May mắn làm sao khi họ cũng đã không mời tôi dùng bữa trưa, nhưng nếu họ mời thì tôi cũng khước từ. Có một hay hai chính trị gia cấp cao mà tôi có lúc cảm thấy thông cảm với con người họ hay với hành động của họ hay chí ít với một phần chương trình hành động của họ, nhưng họ cũng đã hiếm khi hỏi quan điểm của tôi, và lại càng hiếm khi, chỉ cá biệt, chấp nhận các khuyến nghị của tôi đối với một số vấn đề. Tôi cho rằng tôi thiếu sự nhiệt thành của một tông đồ và thiếu cảm giác dấn thân toàn tâm toàn ý thì thầm bên tai: “Tôi khá chắc chắn là tôi biết điều gì nên làm - tôi không thể ngơi nghỉ cho đến khi tôi thuyết phục được các nhà hoạch định chính sách rằng các đề xuất của tôi là đúng!” Hoặc là tôi đã không cố gắng tìm cách gặp các chính trị gia. Giờ đây khi tôi nhìn lại đời mình, có đôi lúc tôi hối tiếc về con đường sự nghiệp của mình, nhưng cũng có những lúc tôi cảm thấy mãn nguyện. Đây lại là một ví dụ cá nhân về những gì tôi nói ở cấp độ lý thuyết tổng quát về lý thuyết thứ tự sở thích. Tôi không nhất quán trong đánh giá hồi cố về hành vi của chính mình. Đó là do thứ tự sở thích của tôi trong cùng một không gian ra quyết định rất khác trong ngày mà tôi có tâm trạng tốt và nhìn lại đầy tự hào về hành vi quá khứ của mình so với thứ tự sở thích khi tôi không có tâm trạng tốt và hối tiếc về những hành động trước đó của mình.

(Còn nữa)

Chú thích

(1) Kornai (2000).

(2) Kornai (2006a, trang 192).

(3) Những người giữ chức thủ tướng hay bộ trường tài chính hai nhiệm kỳ được tính 2 lần.

(4) Hungary đã sử dụng định ngữ [trong tên nước] biểu thị chính thể cộng hòa 3 lần. Cộng hòa Hungary thứ nhất tồn tại từ năm 1918 đến 1919 và Cộng hòa Hungary thứ hai tồn tại từ năm 1946 đến 1949. Cộng hòa Hungary thứ ba được tuyên bố thành lập vào năm 1989. “Luật Cơ Bản” mới (2012) do chính quyền Orbán ban hành đã xóa từ cộng hòa ra khỏi tên nước và do đó nền cộng hòa thứ ba chính thức kết thúc về mặt pháp lý. Quá trình này trong thực tế đã bắt đầu hơi sớm hơn một chút, với sự đàn áp tư tưởng cộng hòa, phá hủy các thể chế dân chủ, và thay thế bằng việc thiết lập các thể chế chuyên chế.

Nguồn:Irregular Memoirs of an Intellectual Journey: questions about the state of economics”, https://journals.openedition.org, 2013.

Nguồn bản dịchHồi kí tản mạn về một hành trình tri thức: những vấn đề về hiện trạng của kinh tế học, phantichkinhte123.com

 

Dịch giả:
Trần Thị Minh Ngọc