[Tinh thần dân chủ] Chương 11: Châu Phi, vượt qua quyền lực cá nhân (Phần 4)

[Tinh thần dân chủ] Chương 11: Châu Phi, vượt qua quyền lực cá nhân (Phần 4)

ĐO LƯỜNG DÂN CHỦ

Cùng với sự đơm hoa kết trái của xã hội dân sự là một nhu cầu có thể thấy được về dân chủ và đánh giá dân chủ. Cuộc khảo sát mang tên Phong vũ biểu châu Phi (Afrobarometer) trong hai năm 2005-2006 cho thấy, trung bình có 62% người dân ở 18 nước nói rằng “chế độ dân chủ thích hợp hơn so với tất cả các hình thức chính quyền khác (trái ngược với câu nói rằng “trong một số trường hợp, chính quyền độc tài có thể là thích hợp hơn” hoặc “thế nào cũng được.”)1 Mức độ ủng hộ dân chủ ở Ghana, Kenya, và Senegal là 75%, ở 10 nước được khảo là 65% hoặc cao hơn. Trên thực tế, chỉ có một vài nước châu Phi có nhiều người ủng hộ một hình thức cụ thể nào đó của chế độ độc tài, nhưng không bao giờ vượt quá 20% dân số. Hơn nữa, đây không phải chỉ là sự cam kết trừu tượng với dân chủ nói chung. Cứ năm người châu Phi được khảo sát thì có bốn người tin rằng “những cuộc bầu cử trung thực, cởi mở và được tiến hành thường xuyên” là cách duy nhất để lựa chọn các nhà lãnh đạo, cứ ba người thì có hai người đồng ý rằng quốc hội (không phải tổng thống) phải là cơ quan ban hành luật pháp, ngay cả nếu tổng thống không đồng ý với họ. Khoảng ba phần tư số người châu Phi có thể gắn ý nghĩa cho từ “dân chủ”, và 75% trong số những người đó nói rằng dân chủ luôn luôn là lựa chọn đáng mong ước.2

Gần ba phần tư người dân châu Phi bác bỏ chế độ quân sự. Hầu hết trong số mười tám nước châu Phi được khảo sát bác bỏ chế độ quân sự với đa số áp đảo (trong tám nước, tỉ lệ bác bỏ là 80% hoặc hơn). Tương tự, 71% bác bỏ chế độ độc đảng và 78% bác bỏ chế độ độc tài cá nhân và mức độ chống cự vẫn giữ nguyên kể từ cuộc khảo sát Afrobarometer, được tiến hành trong mười hai nước vào năm 2000. Trung bình, trong sáu người, chỉ có một người thích một trong những chế độ độc tài kiểu này. Đa số không lớn (52%) bác bỏ cả ba hình thức độc tài.

Sự ủng hộ dân chủ của châu Phi dường như không phải là kết quả của ý tưởng ngây thơ cho rằng chế độ dân chủ có nghĩa là hoặc chắc chắn sẽ mang lại những tiến bộ nhanh chóng về kinh tế. Khi được hỏi, đối với họ dân chủ có nghĩa là gì, “đa số người châu Phi được phỏng vấn (54%) xem xét nó trong bình diện thủ tục bằng cách viện dẫn đến việc bảo vệ các quyền tự do dân sự, tham gia vào quá trình quyết định, bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử, và cải cách bộ máy quản lý.”3 Trong năm người chỉ một người nói dân chủ có nghĩa là kết quả lớn lao, như phát triển kinh tế hay công bằng xã hội. Và năm 2005-2006, khi được hỏi liệu họ cảm thấy rằng hệ thống dân chủ bầu cử của họ “cần có thêm nhiều thời gian hơn nữa để giải quyết những vấn đề có từ trước hay nếu nó “không thể tạo được kết quả nhanh chóng thì chúng ta nên thử hình thức chính phủ khác”, 56% người dân châu Phi và 75% người dân Mali – một trong những nước nghèo nhất thế giới – chọn phương án cho dân chủ thêm thời gian. Điều đó cho thấy sự kiên nhẫn đối với dân chủ đã gia tăng đáng kể– tính từ năm 2000.

Hơn nữa, ở châu Phi tinh thần dân chủ vẫn tồn tại, mặc dù đã có những nỗ lực tàn bạo nhất nhằm đè bẹp nó. Ở Zimbabwe – nước có chế độ áp bức nhất trong những nước được khảo sát – cứ mười người thì chín người bác bỏ chế độ độc tài cá nhân và chế độ độc đảng, mười người thì tám người nói chỉ có quốc hội mới có quyền ban hành luật pháp và ba phần tư số người được hỏi đồng ý rằng đa đảng là điều kiện cần để cung cấp cho người dân quyền lựa chọn về chính trị. Ở mỗi điểm vừa nói, người dân Zimbabwe, những người có kinh nghiệm tươi mới nhất và đang diễn ra của chế độ độc tài, cũng thể hiện khao khát mạnh mẽ đối với chế độ dân chủ.

Michael Bratton, nhà chính trị học ở Đại học Quốc gia Michigan (Michigan State University) và là một trong những đồng sáng lập Afrobarometer, nhận xét rằng, trong khi ở châu Phi, đòi hỏi dân chủ là nhu cầu dai dẳng thì việc cung ứng mà người dân có thể trông thấy lại là vấn đề đáng ngờ hơn. Ví dụ, trong khi 81% người châu Phi muốn những cuộc bầu cử tự do và công bằng, tức là những cuộc bầu cử có thể cho nhà lãnh đạo về vườn, thì chỉ có 47% nghĩ rằng những cuộc bầu cử như thế đang diễn ra ở nước mình. Hai phần ba người dân châu Phi muốn tổng thống của họ phải tuân thủ nguyên tắc pháp quyền, nhưng chỉ một phần ba (36%) cho rằng ông ta tuân thủ nguyên tắc này. Và trong khi hai phần ba muốn có quốc hội đại diện thì chỉ có 46% nghĩ rằng quốc hội của họ phản ánh “quan điểm của cử tri.”4 Vấn đề không phải là người châu Phi không đánh giá cao dân chủ và không đòi hỏi phải có dân chủ mà là các đảng phái ở châu Phi và các chính trị gia không đáp ứng được nguyện vọng của người dân.

Do đó, người dân đã bị vỡ mộng. Sự hài lòng về cách thức hoạt động của dân chủ trong các cuộc điều tra năm 2000 và năm 2005 đã giảm trung bình 13% (từ 58 xuống còn 45%). Trong khi sự hài lòng gia tăng trong một vài nền dân chủ hoạt động tốt như Ghana và Nam Phi, thì tại tám trong mười hai nước được khảo sát, cả hai lần mức độ hài lòng đều giảm. Tuy nhiên, ngay cả phía cung cũng có căn cứ thận trọng để lạc quan. Nhận thức rằng nước mình là dân chủ vẫn giữ nguyên ở khoảng 50% và 54% nghĩ rằng có khả năng là nước họ sẽ vẫn là dân chủ.5 Phân tích các khảo sát của Afrobarometer giai đoạn đầu (năm 2000 và 2002), Bratton và những người đồng sáng lập, Robert Mattes và E. Gyimah-Boadi, thấy rằng những yếu tố định hình mạnh mẽ nhất “việc cung cấp dân chủ” (kết hợp của sự hài lòng với chế độ dân chủ và mức độ nhận thức về dân chủ) có liên quan tới thành tích của hệ thống. Phù hợp với sự lan tràn của chính quyền neopatrimonial, đánh giá thành tích của tổng thống có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với cung ứng dân chủ, nhưng việc người dân có tin rằng cuộc bầu cử gần đây có tự do và công bằng hay không cũng là một yếu tố quan trọng. Các yếu tố khác như thành tích tổng thể của chính phủ về tỉ lệ người có việc làm, giáo dục và y tế; mức độ nhận thức về tham nhũng; niềm tin vào các cơ quan nhà nước; và nhận thức rằng các quyền chính trị đang được bảo vệ và nhóm sắc tộc được đối xử một cách công bằng.6 Tiến hành phân tích dữ liệu năm 2005, Bratton thấy rằng nhận thức rằng bầu cử gần đây là tự do và công bằng là yếu tố mạnh mẽ nhất trong việc định hình mức độ nhận thức về dân chủ của công dân. Như vậy là, thành tích của nhà cầm quyền không còn làm cho xã hội thỏa mãn nữa, các thiết chế chính thức đang bắt đầu có giá trị hơn là những thiết chế phi chính thức.7

Ngược lại, khi xác định “đòi hỏi dân chủ” thì đặc điểm của cá nhân – hiểu biết về dân chủ, kiến thức và nhận thức chính trị, trình độ học vấn và là người sinh ra trong thế hệ hậu thuộc địa – là những đặc điểm có ảnh hưởng mạnh nhất. Trên thực tế, là một người thuộc thế hệ “những người đến tuổi bầu cử trong giai đoạn sau khi giành được độc lập và sự ra đời” của những cuộc cải các dân chủ là chỉ dấu tốt nhất về đòi hỏi dân chủ”. Bratton và các đồng nghiệp của ông coi đây là trường hợp đáng suy nghĩ vì “các nước thuộc địa phải chịu sự áp bức và thiếu thốn do” các chế độ độc tài trong giai đoạn sau khi đất nước giành được độc lập gây ra và do đó “học được những biện pháp cứng rắn nhằm loại bỏ các hình thức chính phủ độc tài.”8

Chú thích: 

(1) Phần lớn số liệu ở đây là lấy từ Afrobarometer, được đăng trên htttp://www.afrobarometer.org/publications.html. Xem thêm, đặc biệt là “The Status of Democracy, 2005-2006: Findings from Afrobarometer Round 3 for 18 Countries”, Afrobarometer Briefing Paper no. 40, June 2006. Một số số liệu được giám đốc thực hiện dự án Micheal Bratton và phó giám đốc Carolyn Logan cung cấp trực tiếp, cả hai ông này đều thuộc Đại học Quốc gia Michigan (Michigan State University), tôi xin cám ơn hai ông đã cộng tác. Trong phần này, trừ phi có ghi chú khác, mức trung bình của ý kiến là trung bình tính theo phần trăm của từng nước, chứ không phải là trung bình của 25 ngàn người châu Phi được khảo sát.

(2) Michael Bratton, “Formal Versus Informal Institutions in Africa”, Journal of Democracy 18 (July 2007): 96-110.

(3) Michael Bratton, Robert Mattes, và E. Gyimah-Boadi, Public Opinion, Democracy, and Market Reform in Africa (Cambridge: Cambridge University Press, 2005), pp. 69-70.

(4) Bratton, “Formal Versus Informal Institutions”, hình 2.

(5) Ibid.

(6) Bratton, Mattes, and Gyimah-Boadi, Public Opinion, Democracy, and Market Reform, pp. 272-77. Những kết quả này dựa trên phân tích hai cuộc khảo sát (năm 2000 và 2002), chứ không dựa vào khảo sát năm 2005.

(7) Bratton, “Formal Versus Informal Institutions”, bảng 2.

(8) Bratton, Mattes, and Gyimah-Boadi, Public Opinion, Democracy, and Market Reform, p. 277. Trong bài phân tích số liệu của vòng khảo sát thứ ba, Bratton phát hiện ra rằng giáo dục là tác nhân định hình đòi hỏi dân chủ mạnh mẽ nhất.

Nguồn: Larry Diamond (2008). Tinh Thần Dân Chủ. Phạm Nguyên Trường dịch. Nguyên tác: The Spirit of Democracy (2008)

Dịch giả:
Phạm Nguyên Trường