![[Tinh thần dân chủ] Chương 10: Châu Á là ngoại lệ? (Phần 5)](http://thitruongtudo.vn/upload/01_bai_viet/k22071_12.5_(1).png)
[Tinh thần dân chủ] Chương 10: Châu Á là ngoại lệ? (Phần 5)
CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ PHI TỰ DO GẶP KHỦNG HOẢNG
Hi vọng chế độ dân chủ có thể ăn sâu bén rễ ở châu Á được thúc đẩy một phần là vì những cuộc chuyển hóa trong những nước nghèo hơn hẳn Đài Loan và Hàn Quốc, ví dụ, Philippines và Bangladesh. Khi những nước này trở thành dân chủ, Philippines vào năm 1986 và Bangladesh vào năm 1991, triển vọng của chế độ dân chủ trên khắp lục địa châu Á đã sáng lên, và Bangladesh cũng thường xuyên được người ta nhắc đến như là bằng chứng về khả năng tồn tại của chế độ dân chủ trong các nước Hồi giáo. Tuy nhiên, dân chủ đã phải chiến đấu với nền chính trị hủ bại, với nạn lạm dụng quyền lực, bạo lực chính trị, khả năng thực thi chính sách quá kém, và cuộc đối đầu giữa chính phủ và phe đối lập làm tê liệt mọi hoạt động. Dân chủ ở Bangladesh làm người ta nghi ngờ; còn ở Philippines, nền quản trị tồi làm cho tình hình an ninh và phát triển xấu đi và làm xói mòn niềm tin của công chúng.
Kể từ năm 1986, chế độ dân chủ Philippines đã và đang chiến đấu với nhiều căn bệnh gây tai họa cho đất nước này kể từ khi Ferdinand Marcos giành chính quyền bằng sức mạnh quân sự vào năm 1972: bạo lực, đảng phái nằm trong tay các ông trùm, và tham nhũng – hay cái mà các nhà phân tích gọi là “súng, đâm thuê chém mướn và vàng.” Vài chục gia đình bao trùm lên toàn bộ nền chính trị quốc gia, hiện nay, còn được bổ sung thêm (và gắn bó bằng các mối quan hệ hôn nhân) bằng các ngôi sao điện ảnh, các vận động viên và những người nổi tiếng khác. Như tờ Economist nhận xét, vì “những tập đoàn chính trị này chẳng có mấy mục tiêu ngoài việc giữ gìn và mở rộng ảnh hưởng của họ, cho nên họ ít quan tâm đến việc hoạch định chính sách” và hoạt động lập pháp của họ trong hai thập kỉ gần đây đã bị teo lại. Ở các địa phương, hoạt động chính trị chỉ xoay quanh “một vài gia đình liên kết với chặt chẽ với nhau”, những người kiểm soát các vị trí trong lĩnh vực kinh doanh và chính quyền cũng như các phương tiện bạo lực – cả chính thức lẫn không chính thức. Hầu hết các đảng chính trị đều không có cương lĩnh hay nền tảng tư tưởng mà đơn giản chỉ là liên minh của những kẻ ăn trên ngồi trốc nhằm giành giật quyền lực và nguồn lực của nhà nước mà thôi. Tham nhũng “lan tràn trên tất cả các cấp chính quyền, làm tê liệt các nỗ lực của chính phủ trong việc ổn định tài chính” trong khi “để lại những dự án [cơ sở hạ tầng] không đạt chuẩn và thường dở dang, rải rác khắp nơi và không thể liên kết được với nhau”. Tội phạm có tổ chức, “hầu như bao giờ cũng hoạt động với sự thông đồng của các quan chức”, chiếm khoảng 10 đến 20% thu nhập quốc gia hàng năm. Bất bình đẳng xã hội và bất công tiếp sức cho cuộc nổi dậy kéo dài của cộng sản, hiện có hơn mười ngàn chiến binh và hơn một triệu cử tri trung thành với họ. Ở quần đảo phía Nam của người Hồi giáo thiểu số, cuộc bạo loạn của các nhóm li khai và chống bạo loạn đã bước vào thập kỉ thứ tư.
Nhìn từ quan điểm xã hội học, hai vị tổng thống tương đối trung thực và có đầu óc cải cách là Corazon Aquino và Fidel Ramos dường như là hiện tượng bất bình thường và việc bầu cử Joseph Estrada, một diễn viên quay sang làm chính trị, làm tổng thống vào năm 1998 dường như là hiện tượng tự nhiên. Mặc dù Estrada giành chiến thắng trong “cuộc bầu cử trong sạch nhất và có tính quyết định nhất” của đất nước với chiến dịch hấp dẫn đối với các giai cấp nghèo khổ, nhưng ông ta đã nhanh chóng chìm vào nạn tham nhũng và thiên vị. Công chúng đã nổi điên khi những câu chuyện khủng khiếp về những quyết định của tổng thống được đưa ra giữa lúc ăn nhậu cùng “nội các ban đêm” của những người bạn nối khố và “những khoản bôi trơn hậu hĩnh đổ vào những thú vui cá nhân, trong đó có những biệt thự do của các cô tình nhân của Estrada” làm chủ bị tung ra. Khi có bằng chứng rõ ràng rằng Estrada đã đích thân nhận tiền của các tập đoàn cờ bạc bất hợp pháp, tháng 11 năm 2000, hạ viện đã bỏ phiếu nhằm buộc tội ông. Những người ủng hộ ông trong thượng viện đã ngăn chặn được vào phút chót việc bãi nhiệm Estrada bằng cách không cho các công tố viên mở các hồ sơ cực kì quan trọng. Động thái này, một lần nữa, khuấy động phong trào “quyền lực nhân dân” ở Philippines. Sau những cuộc biểu tình đông người diễn ra trên đường phố và nội các từ chức, các nhà lãnh đạo quân sự tuyên bố rằng họ không còn ủng hộ ông nữa, và Tòa án Tối cao (từ một quan điểm hiến pháp rất mơ hồ) tuyên bố rằng chức vụ tổng thống bị bỏ trống. Tháng 1 năm 2001, phó tổng thống Gloria Macapagal-Arroyo được phong làm tổng thống. “Quá trình này rất khó được coi là dân chủ, nhưng được mọi người coi là cần thiết, ít nhất là tầng lớp thượng lưu và trung lưu ở Manila đã đồng ý như thế.”
Đối với những người ủng hộ quản trị tốt, cả ở Philippine lẫn trên trường quốc tế, việc đưa Macapagal-Arroyo – một nhà kinh tế học, một người theo quan điểm kĩ trị và là con gái của một cựu tổng thống – dường như là của trời cho. Vị tổng thống mới đã khởi động lại chương trình cải cách kinh tế của tổng thống Ramos từ giữa những năm 1990 và ủng hộ cuộc chiến chống khủng bố trên toàn cầu của tổng thống Hoa Kỳ, George W. Bush, do đó viện trợ của Mỹ đang gia tăng rất mạnh. Nhưng những khó khăn của chế độ dân chủ ở Philippines đã cản trở bà và quốc hội do những kẻ ăn trên ngồi trốc nắm giữ đã chặn đứng những cuộc cải cách của bà. Tháng 5 năm 2004, bà đã tìm kiếm nhiệm kỳ tổng thống đầy đủ kéo dài sáu năm và đã đương đầu với một ngôi sao điện ảnh theo phái dân túy khác là Fernando Poe Jr. “Rất nổi tiếng, học hành không đến nơi đến chốn, tính khí thất thường và gắn bó chặt chẽ với nhóm của Estrada”, Poe là cơn ác mộng kinh khủng nhất của những người Phlippines có học.” Vận động tranh cử như một người yếu thế, Macapagal-Arroyo đã khởi động lại tất cả các dự án đã bị ngưng trệ, bảo trợ tràn lan, rót vốn của chính phủ vào các dự án ngắn hạn và bảo hiểm sức khỏe cho rất nhiều người nghèo. Bạo lực, được cho là đã giết chết 150 người, nhiều báo cáo nói rằng có gian lận và sự chậm trễ quá mức trong việc kiểm phiếu đã làm hoen ố cuộc bầu cử, nhưng sáu tuần sau, tổng thống đương nhiệm được tuyên bố là người chiến thắng với cách
biệt là 3,5%. Vài tháng sau, Poe qua đời vì một cơn đột quỵ, tạo điều kiện cho Macapagal-Arroyo tái tập trung vào những thách thức về kinh tế và an ninh cấp bách của đất nước.
Tình hình dường như đã trở lại “bình thường” cho đến tháng 5 năm 2005, đấy là lúc người ta phát hiện ra băng ghi âm buổi nói chuyện giữa tổng thống với một ủy viên ủy ban bầu cử trong thời gian kiểm phiếu. Cuộn băng – các quan chức chính phủ không thể phủ nhận được tính trung thực của nó – dường như đã khẳng định những cáo buộc cho rằng tổng thống đã lợi dụng quyền lực của mình để gian lận bầu cử. Thế là xã hội dân sự của Philippines lại quay trở lại đường phố, họ tìm kiếm điều có thể đã được gọi là vụ trục xuất thứ ba bằng các cuộc phản đối từ năm đời tổng thống gần đây nhất. Nhóm khá lớn các bộ trưởng đã từ chức, liên minh của tổng thống bị teo đi, và tiếp tục có những cáo buộc về việc chồng và con trai của tổng thống nhận tiền từ hoạt động cờ bạc bất hợp pháp, cũng là nguyên nhân làm cho Joseph Estrada bị hạ bệ. Cựu tổng thống Corazon Aquino tham gia vào phong trào đối lập; “nhiều nhóm xã hội dân sự khác nhau”, từ cộng đồng doanh nghiệp ở Manila đến các tổ chức phi chính phủ tả khuynh “và 11 cựu thành viên của chính phủ” cũng tham
gia phong trào này. Niềm tin của dân chúng vào sự lãnh đạo của Macapagal- Arroyo suy giảm rất nhanh, “và chỉ trong vài ngày giữa tháng bảy, việc chấm dứt nhiệm kì tổng thống của dường như sắp xảy ra.”
Nhưng nhà kĩ trị này hóa ra là người lắm mưu nhiều kế, ngoan cường và không từ bỏ cuộc đấu tranh chính trị. Các quan chức cao cấp của chính phủ và các sĩ quan quân sự được lệnh không được làm chứng trước quốc hội nếu không được tổng thống cho phép. Khi một vị tướng hải quân làm việc đó, ông phải ra tòa án binh. Phong trào “quyền lực nhân dân mệt mỏi” và các cuộc biểu tình trên đường phố xẹp hẳn. Với quyền lực của tổng thống và được bảo trợ, Macapagal-Arroyo đã chặn đứng được hai vụ luận tội (impeachment), trong khi đó bà tiếp tục đưa vào nội các những người trung thành với mình. Các báo cáo về sự dính líu sâu của chồng bà vào việc khai thác gỗ bất hợp pháp, buôn lậu và cờ bạc tiếp tục được tung ra, nhưng cơ sở điều tra tham nhũng đã bị ngăn chặn. Chẳng bao lâu sau bà đã tung ra chiến dịch nhằm biến Philippines thành chế độ đại nghị, mà các nhà phê bình cáo buộc là nỗ lực để giữ quyền lực mãi mãi. Ngày 24 tháng 2 năm 2006, bà tuyên bố tình trạng khẩn cấp, hủy bỏ tất cả những giấy phép về việc tổ chức biểu tình (trong đó có cuộc tuần hành nhân kỉ niệm cuộc cách mạng EDSA) và tuyên bố đã chặn đứng được một vụ âm mưu đảo chính. Súng phun nước và dùi cui đã được sử dụng để chống lại người biểu tình.” Sau ba tuần, trước làn sóng phản đối dâng cao, tình trạng khẩn cấp đã bị dỡ bỏ, và sau này Toà án Tối cao đã tuyên bố rằng hành động của các quan chức là bất hợp pháp.
Sau vụ khủng hoảng này, chế độ dân chủ ở Philippines rơi vào tình trạng ngả nghiêng, đầy thương tích, mệt mỏi và vỡ mộng, với tổng thống Macapagal- Arroyo “mang ơn những viên tướng của bà” và liên minh của các chính trị gia thối nát. “Mối nghi ngờ về tính ưu việt – và khả năng sống sót trong dài hạn – của chế độ dân chủ do những kẻ ăn trên ngồi trốc nắm quyền, được thiết lập sau khi Maros bị lật đổ, ngày càng gia tăng.” Niềm tin của dân chúng vào chế độ dân chủ và cách thức hoạt động của nó giảm đi nhanh chóng. Sự kiện là cảnh sát thường móc ngoặc với các ông trùm chính trị và tội phạm địa phương và giới quân sự để triển khai cái mà chính phủ tuyên bố là “cuộc chiến tranh tổng lực” chống lại các phiến quân cộng sản, các vụ vi phạm nhân quyền – trong đó có “mất tích, bắt cóc, giết người không cần xét xử, ngược đãi người bị tình nghi và người bị tạm giữ” – đã và đang gia tăng. Năm 2006, xảy ra “hàng chục vụ giết người, nhiều vụ được cho là có động cơ chính trị” mà không có nghi phạm nào bị truy tố (mặc dù tổng thống đã cam kết và đã thành lập ủy ban điều tra). Cuộc điều tra tháng 9 năm 2006 do Human Rights Watch tiến hành đã phát hiện ra rằng “xã hội rất nghi ngờ những nỗ lực điều tra của chính phủ, tất cả các nhân chứng và gia đình nạn nhân tỏ ra sợ hãi và nỗi sợ hãi bao trùm lên những khu vực từng xảy ra những vụ giết người.” Cũng trong khoảng thời gian khi ủy ban của chính phủ phải trình báo cáo vào tháng 10, giám mục Công giáo Alberto Ramento bị đâm chết ngay trên giường ngủ của mình. Vị giám mục này là người ủng hộ những người công nhân đình công trong một đồn điền ở địa phương và lớn tiếng chỉ trích lực lượng an ninh Philippines, đã trở thành một trong “mấy trăm vị linh mục, các nhà hoạt động, nhà báo và những người bất đồng chính kiến khác bị sát hại kể từ khi Tổng thống Gloria Macapagal-Arroyo lên cầm quyền vào năm 2001.”
Trong số các vị bộ trưởng có tư tưởng tự do rời bỏ nội các của Macapagal-Arroyo có thứ trưởng giáo dục Jose Luis “Chito” Gascon. Là người đã từng tham gia chiến dịch “quyền lực nhân dân” đầu tiên, ông là người trẻ tuổi nhất trong Ủy ban Hiến pháp năm 1986 và đại biểu trẻ nhất trong quốc hội Philippines đầu tiên sau thiết quân luật. Là luật sư và giáo sư đại học, ông vô cùng lo lắng cho tình hình dân chủ của Philippines. “Đây chắc chắn không phải là chế độ dân chủ xuất hiện sau năm 1985”, ông nói với tôi. “Chúng tôi có chế độ dân chủ thế phẩm. Chúng tôi có hiến pháp, có luật, có quy trình và quy phạm, nhưng thường xuyên bị vi phạm. Rất ít người tin vào hiến pháp và tất cả các đảng phái chính trị. Xã hội không tin tổng thống, nhưng cũng chẳng tin phe đối lập”. Cho nên ông cảm thấy không có biện pháp thay thế nào khác ngoài thúc đẩy sự nghiệp dân chủ thông qua biện pháp bầu cử. “Người dân đã kiệt sức rồi. Họ mệt mỏi vì các biện pháp ngoài vòng pháp luật.” Theo nhà báo Steven Rogers, người đã từng sống ở Philippines hơn hai thập kỉ, các kiến trúc sư của vụ gian lận bầu cử giúp Macapagal-Arroyo nắm quyền một lần nữa vào năm 2004 có lẽ là “thực sự tin rằng họ đã làm một hành động yêu nước và cần thiết. Như trong vụ phế truất Estrada, dân chủ đã bị đập tan nhằm cứu nó. Mặc dù sẽ cảm thấy khó chịu khi nghĩ rằng dân chủ có thể bị phá vỡ – thậm chí với động cơ tốt nhất – nhiều lần đến mức thu thập nó lại là việc làm bất khả thi.”
Nhưng làm sao mà một nhà nước phi tự do và rối loạn chức năng lại có thể là chế độ dân chủ trước khi nó bắt đầu tan rã như một nhà nước? Trường hợp mong manh của Bangladesh cho ta câu trả lời. Về nhiều khía cạnh, đây là hình ảnh của chế độ dân chủ của Pakistan trước cuộc đảo chính năm 1999, việc kiểm soát của chính phủ Bangladesh thường do hai đảng – do những người đứng đầu nắm gần như toàn bộ quyền hành, chính sách gần giống nhau nhưng lại coi thường và không tin cậy nhau – luân phiên nắm giữ. Một đảng, Awami League (AL), đứng đầu con gái của một vị cựu thủ tướng bị quân đội giết hại, còn đảng kia, Đảng Quốc gia Bangladesh (BNP), liên minh với các đảng Hồi giáo có ít đảng viên nhằm củng cố quyền lực trong quá trình nắm quyền trong thời gian gần đây. Tiến trình bầu cử đã bị hoen ố do bạo lực chính trị gia tăng; chiến dịch tranh cử vào quốc hội tháng 10 năm 2001 đã làm thiệt mạng hơn 140 người. Tham nhũng lan tràn, tội phạm và tình trạng vô luật pháp gia tăng, sự phân cực về chính trị và chủ nghĩa cực đoan tôn giáo mạnh thêm, và càng ngày người ta càng sợ rằng các nhà nước dân chủ sẽ thất bại.
Về nhiều khía cạnh, tình hình ở Bangladesh đã thực sự tồi tệ hơn là ở Pakistan trước cuộc đảo chính. Thật khó dung hòa thù hằn cá nhân giữa Sheikh Hasina Wajed của đảng AL và Khaleda Zia của đảng BNP – người có chồng quá cố là nhà cầm quyền quân sự “bị cáo buộc đồng lõa” trong việc ám sát cha của Sheikh Hasina vào năm 1975, vị thủ tướng sáng lập Bangladesh, Sheikh Mujibur Rahman. Kể từ khi chế độ dân chủ được khôi phục vào 1991, hai người đã cạnh tranh gay gắt nhằm giành quyền lãnh đạo và đã thay nhau nắm quyền. Khi cầm quyền, mỗi người đều đứng đầu chính phủ đàn áp và tìm cách gạt bỏ hoàn toàn đảng kia. Năm 1994, bà Hasina khởi động truyền thống cản trở và dồn đối phương vào thế bế tắc bằng vụ tẩy chay quốc hội nhằm phản đối vụ tham nhũng của chính phủ của đảng BNP của bà Zia. Kể từ đó, mỗi đảng đều có những cuộc đình công được tổ chức trên toàn quốc, thách thức tính hợp pháp chính quyền đương nhiệm, và yêu cầu chính phủ từ chức. Càng ngày, tính độc lập của tòa án và ngành dân chính càng bị xói mòn, quốc hội bị cho ra rìa – và mọi sự lộn xộn cứ thế diễn ra. Như vậy là, “các đảng phải thường xuyên sử dụng bạo lực nhằm lật đổ chính phủ. Tẩy chay, đình công trên toàn quốc và các cuộc biểu tình quần chúng đã trở thành những công cụ thông thường của chính trị, làm rất nhiều người vỡ mộng đối với tiến trình chính trị.” Các tổ chức phi chính phủ địa phương báo cáo đã có 526 người thiệt mạng trong vụ bạo lực chính trị năm 2004.
Bước ngoặt xảy ra ngày 24 tháng 8 năm 2004,“khi một loạt lựu đạn phát nổ trong cuộc tập hợp của đảng AL ở Dhaka, làm22 người chết và hàng trăm người bị thương, trong đó có cả mấy nhà lãnh đạo cao cấp của đảng này.” Sheikit Hasina cũng suýt bị giết. Một năm sau, những kẻ cấp tiến kêu gọi áp đặt luật Hồi giáo đã đặt 500 quả bom nhỏ vào các toà nhà chính phủ và câu lạc bộ báo chí, nhưng chính phủ đã do dự “trong việc trừng trị các nhóm Hồi giáo cấp tiến, và để các đảng Hồi giáo trong liên minh cầm quyền.” Dường như “mối bất hòa về chính trị giữa hai đảng [chi phối] đã bị trước hết là Jamaat-e-Islami và các đảng Hồi giáo cực đoan khác chen vào.
Khi Bangladesh tiến gần tới cuộc bầu cử quốc hội tháng 5 năm 2007, cuộc đối đầu hình thành xung quanh đòi hỏi của đảng AL đòi cải cách hệ thống “chính phủ tạm quyền” (chính phủ tạm quyền là chính phủ được lập ra trong giai đoạn khi chính phủ trong hệ thống đại nghị bị mất tín nhiệm và chuẩn bị bầu cử để thành lập chính phủ mới – ND), thay thế quan chức dân cử bằng chính phủ không đảng phái, trung lập trong vòng ba tháng trước cuộc bầu cử. Trên thực tế, kể từ khi hệ thống này được áp dụng, đảng đối lập luôn luôn nghi ngờ thành phần của chính phủ tạm quyền. Trong thời gian chuẩn bị cho cuộc bầu cử năm 2007, đảng AL thề sẽ tẩy chay, cáo buộc rằng đảng BNP đang chuẩn bị lật đổ chính phủ tạm quyền trung lập nhằm thao túng cuộc bầu cử. Các cuộc đình công đã leo thang thành những cuộc đụng độ đầy bạo lực, kéo cả hai đảng, cảnh sát chống khủng bố và binh lính vào cuộc, làm tê liệt thủ đô Dhaka. Cuối cùng, đúng 11 ngày trước khi diễn ra bầu cử, tổng thống tạm quyền Iajuddin Ahmed, được quân đội hậu thuẫn, tuyên bố tình trạng khẩn cấp và tạm hoãn cuộc bầu cử, trong khi chỉ định chính phủ tạm quyền mới, trung lập hơn. Theo tờ Economist thì việc trì hoãn này đã “ngăn chặn được một vụ tắm máu,” nhưng nó cũng để lại “trên thực thế một nhà nước do giới quân nhân kiểm soát” và “sức sống của chế độ dân chủ” cũng không còn.
Trong tình trạng khẩn cấp kéo dài vô hạn định, chính phủ cấm các hoạt động chính trị và công đoàn và hạn chế các cuộc biểu tình quần chúng. Chính phủ cũng thay thế ủy ban bầu cử và tung ra chiến dịch bài trừ tham nhũng và trốn thuế, chỉ trong hai tháng đầu đã bắt giữ 160 cán bộ cao cấp của cả hai đảng chính (và nhiều ngàn người khác). Quyền cho bị cáo được tại ngoại đã bị đình chỉ vào tháng 3 năm 2007. Mặc dù đảng AL kêu gọi tổ chức bầu cử vào tháng 6, nhưng chính phủ tạm quyền nói rằng trước hết phải dọn dẹp hệ thống bầu cử, tiến hành những cuộc cải các chính phủ và đưa các chính khách thối nát ra tòa.
Tương tự như Philippines, Bangladesh có một số thành tố dân chủ quan trọng để có thể ngăn chặn việc lạm dụng quyền lực và cung cấp sự ổn định nào đó bên dưới những vụ lộn xộn. Trong đó có tốc độ tăng trưởng khá, giáo dục được mở rộng, “các phương tiện truyền thông tự do, năng động” và xã hội dân sự sôi động, bao gồm cả ngân hàng Grammen với những khoản vay nhỏ của Muhammad Yunus, người từng được giải Nobel Hòa bình và “cử tri đoàn có hiểu biết và truyền thống của chủ nghĩa thế tục tự do đã ăn sâu bén rễ.” Nhưng
tinh thần dân chủ đã bị mối thù máu xương giữa hai đảng chính và việc họ sẵn sàng sử dụng cũng như bỏ qua “tham nhũng, tội phạm và bạo lực có tổ chức như là một phần không thể thiếu của chính trị” xói mòn dần. Chế độ dân chủ ở Bangladesh đang gặp rắc rối rất nghiêm trọng.
Nguồn: Larry Diamond (2008). Tinh Thần Dân Chủ. Phạm Nguyên Trường dịch. Nguyên tác: The Spirit of Democracy (2008)