![[Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại - Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói] - Chương XIV: Phá khuôn (Phần 1)](http://thitruongtudo.vn/upload/01_bai_viet/k240013_(1).jpg)
[Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại - Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói] - Chương XIV: Phá khuôn (Phần 1)
BA VỊ THỦ LĨNH CHÂU PHI
NGÀY 6/9/1895, con tàu Tantallon Castle cập bến tại Plymouth ở bờ nam của Vương quốc Anh. Ba vị thủ lĩnh, Khama của Ngwato, Bathoen từ Ngwaketse, và Sebele điều hành Kwena, xuống tàu và bắt chuyến xe lửa tốc hành lúc 8 giờ 10 phút đến ga Paddington, Luân Đôn. Họ đến Anh vì một sứ mạng vĩ đại: cứu tám bang Tswana, bao gồm cả ba bang họ đang cai trị, từ tay Cecil Rhodes. Tám bang này tạo nên Bechuanaland lúc bấy giờ, sau đó trở thành Botswana khi thống nhất vào năm 1966.
Các bộ lạc sinh sống tại Bechuanaland đã buôn bán và trao đổi với người châu Âu trong gần suốt thế kỷ 19. Vào thập niên 1840, nhà truyền giáo người Xcốt-len nổi tiếng David Livingstone đã du ngoạn khắp Bechuanaland và cải đạo cho vua Sechele của Kwena sang Thiên Chúa giáo. Bản dịch đầu tiên của Kinh Thánh sang một ngôn ngữ châu Phi là bằng tiếng Setswana, ngôn ngữ của Tswana. Năm 1885, Vương quốc Anh tuyên bố Bechuanaland thuộc quyền bảo hộ của mình. Dân tộc Tswana hài lòng với sự sắp đặt này, bởi họ nghĩ chính phủ Anh sẽ bảo vệ vùng đất của mình khỏi những cuộc xâm lăng của các quốc gia châu Âu trong tương lai, đặc biệt là khỏi người Boer, bởi dân tộc Tswana và Boer đã từng có xung đột từ cuộc Đại di tản năm 1835, khi hàng nghìn người Boer di tản vào nội địa để chạy trốn chủ nghĩa thực dân Anh. Trong khi đó, người Anh lại muốn nắm quyền kiểm soát vùng diện tích này để ngăn chặn việc bành trướng thuộc địa của người Boer cũng như nguy cơ xâm lược của người Đức, bởi Đức vừa thôn tính vùng đất tây nam châu Phi, mà ngày nay là Namibia. Người Anh cho rằng một cuộc thực dân hóa toàn diện không đáng để thực hiện. Ngài cao ủy Rey tóm tắt tầm nhìn của chính phủ Anh vào năm 1885 rất rõ ràng: “Chúng tôi chỉ quan tâm đến đất nước nằm phía bắc của Molope [Bechuanaland] với vai trò là con đường dẫn vào thuộc địa, vì thế chúng tôi giới hạn chính mình trong phạm vi bảo vệ Bechuanaland khỏi bọn giặc cướp nước và chính quyền nước ngoài và cố gắng thực hiện càng ít sự quản trị hay định cư ở đây càng tốt”.
Nhưng đối với người Tswana, mọi chuyện đã thay đổi khi Công ty Nam Phi thuộc Anh của Cecil Rhodes bắt đầu mở rộng lãnh thổ theo hướng bắc của Nam Phi vào năm 1889, chiếm đoạt những vùng đất lớn mà sau này trở thành Bắc và Nam Rhodesia (hiện nay là Zambia và Zimbabwe). Đến năm 1895, khi ba vị lãnh đạo châu Phi đang viếng thăm Luân Đôn, Rhodes đã để mắt tới lãnh thổ phía Tây Nam Rhodesia, tức vùng Bechuanaland. Cả ba đều hiểu rằng nếu để tám bang của Bechuanaland rơi vào tay Rhodes thì số phận của họ sẽ rất thê thảm và phải chịu đựng sự khai thác bóc lột đến tận xương tủy. Tuy việc đối đầu quân sự với Rhodes có vẻ không khả thi, ba ông đã quyết định đứng lên chống lại bằng mọi cách. Giữa hai lựa chọn tệ hại, họ đã có một quyết định đỡ tệ hơn: thà bị người Anh cai quản còn hơn là phải phục tùng sự thôn tính của Rhodes. Với sự giúp đỡ của Hội Truyền giáo Luân Đôn, ba vị lãnh đạo viếng thăm Luân Đôn để thuyết phục Nữ hoàng Victoria và Joseph Chamberlain, Bộ trưởng Thuộc địa bấy giờ, chấp nhận cai trị Bechuanaland và bảo vệ vùng đất khỏi tay Rhodes.
Ngày 11/9/1895, họ có cuộc diện kiến đầu tiên với Chamberlain. Sebele trình bày trước tiên, lần lượt sau đó là Bathoen và Khama. Chamberlain khẳng định sẽ cân nhắc việc sử dụng sự cai quản của Anh để bảo vệ các bộ tộc trước sự đe dọa của Rhodes. Trong thời gian đó, bộ ba đã tiếp tục lên tàu thực hiện hành trình vòng quanh nước Anh để tìm kiếm sự ủng hộ cho quyết định của mình. Họ ghé thăm và diễn thuyết tại Windsor và Reading, gần Luân Đôn; đến Southampton trên bờ Nam; và đến cả Leicester và Birmingham - căn cứ chính trị của Chamberlain ở miền trung nước Anh. Họ hướng lên phía bắc để đến thành phố công nghiệp Yorkshire, đến Sheffield, Leeds, Halifax và Bradford; họ cũng đi về phía tây đến Bristol rồi lên Manchester và Liverpool.
Trong lúc đó, tại Nam Phi, Cecil Rhodes đang chuẩn bị cho một một cuộc tấn công vũ trang vào Cộng hòa Boer ở Transvaal, sự kiện mà sau này trở thành chiến dịch càn quét Jameson khét tiếng, bất chấp sự phản đối kịch liệt của Chamberlain. Những vụ việc như thế đã làm Chamberlain cảm thông với các vị thủ lĩnh nhiều hơn. Ngày 6/11, ba vị lãnh đạo quay lại Luân Đôn để gặp Chamberlain một lần nữa và trao đổi với nhau thông qua một thông dịch viên.
Chamberlain: Tôi muốn bàn về vùng đất với các ngài, và về vấn đề đường sắt và bộ luật sẽ được áp dụng trên lãnh thổ của các ngài… Giờ chúng ta hãy xem bản đồ… Chúng tôi sẽ lấy vùng đất cần cho việc xây dựng đường sắt, chỉ thế thôi.
Khama: Tôi cảm thấy rất vui nếu ngài tự mình lấy phần đất đó.
Chamberlain: Vậy tôi sẽ tự mình thực hiện và gửi đến đó những người thân cận của mình để giám sát. Chúng tôi sẽ chỉ lấy những gì mình cần, các ngài cũng sẽ được đền bù xứng đáng cho những gì chúng tôi lấy.
Khama: Tôi muốn biết đường sắt sẽ đi thế nào [tức là đi đâu].
Chamberlain: Nó sẽ đi xuyên qua vùng lãnh thổ của ngài nhưng sẽ có rào chắn bảo vệ, và chúng tôi sẽ không cướp đất.
Khama: Tôi tin là ngài sẽ làm việc này cho bản thân tôi, và đối xử công bằng với tôi trong chuyện này.
Chamberlain: Tôi sẽ để mắt đến quyền lợi của ngài.
Ngày hôm sau, Edward Fairfield từ Văn phòng Thuộc địa, giải thích chi tiết hơn về quyết định dàn xếp của Chamberlain:
Mỗi vị thủ lĩnh, Khama, Sebele và Bathoen, sẽ sở hữu một quốc gia dưới sự bảo vệ của Nữ hoàng. Ngoài ra, Nữ hoàng sẽ chỉ định một nhân viên đến phụ tá cho từng vị. Mỗi thủ lĩnh cũng vẫn cai trị nhân dân của mình y như hiện nay.
Không có gì bất ngờ về phản ứng của Rhodes khi bị ba vị lãnh đạo châu Phi qua mặt. Hắn đánh điện cho một kẻ dưới trướng với thông điệp: “Ta phản đối việc bị ba bộ tộc bản xứ thiếu hiểu biết đánh gục”.
Thực chất, ba vị thủ lĩnh châu Phi có một thứ rất giá trị mà họ đã dày công bảo vệ bấy lâu nay khỏi móng vuốt của Rhodes, và sau này tiếp tục bảo vệ nó khỏi luật lệ giả dối của người Anh. Đến thế kỷ thứ 19, các bang Tswana đã xác lập chiều hướng cơ bản về thể chế chính trị của mình. Chiều hướng này bao gồm sự tập trung hóa chính trị và quy trình quyết định tập thể ở một mức độ cao, rất khác so với tiêu chuẩn của người châu Phi sống ở hạ Sahara châu Phi. Đây có thể được hiểu là chủ nghĩa đa nguyên ở mức sơ khai. Tương tự như việc Đại Hiến chương Magna Carta cho phép sự tham gia của giới quý tộc trong việc đưa ra các quyết định chính trị và đặt ra một số giới hạn đối với hành động của nhà vua Anh, thể chế chính trị của Tswana, cụ thể hơn là kgotla, cũng khuyến khích việc tham gia chính trị và hạn chế các thủ lĩnh. Nhà nhân chủng học Nam Phi Isaac Schapera miêu tả cách làm việc kgotla như sau:
Tất cả mọi vấn đề về chính sách dân tộc đều được soạn thảo hoàn chỉnh trước khi đưa ra cho hội đồng bao gồm những nam giới trưởng thành. Những cuộc họp như thế diễn ra rất thường xuyên… những vấn đề được bàn luận… là những thảo luận về bộ tộc, tranh luận giữa thủ lĩnh và họ hàng của ngài, việc áp đặt thuế, lời hứa về những công việc mới trong cộng đồng, những sắc lệnh mới do thủ lĩnh ban hành… Việc hội đồng bác bỏ mong muốn của thủ lĩnh là lẽ thường. Mọi người đều có thể phát biểu ý kiến nên những cuộc họp giúp người lãnh đạo hiểu được cảm nghĩ của người dân nói chung và cho quần chúng có cơ hội nói lên sự bất bình của họ. Nếu đúng dịp, thủ lĩnh và cố vấn của ngài cũng có thể bị quở trách thậm tệ, bởi vì người dân ít khi sợ trao đổi cởi mở và thẳng thắn suy nghĩ của mình.
Ngoài kgotla, cương vị thủ lĩnh Tswana không nhất thiết tuân theo đường lối cha truyền con nối mà là cơ hội dành cho bất cứ người nào có tài và khả năng nổi bật. Nhà nhân chủng học John Comaroff khi nghiên cứu chi tiết về lịch sử chính trị của Rolong, một bang khác của Tswana, đã chỉ ra rằng mặc dù Tswana có những luật lệ quy định rõ ràng cách thức mà chức thủ lĩnh được kế thừa trong gia đình, các luật lệ này, trên thực tế, được đặt ra là để xóa bỏ những thủ lĩnh bất tài và cho phép các ứng viên tài năng trở thành lãnh đạo. Ông cho thấy việc thắng cử chức thủ lĩnh là một thành tựu có được do nỗ lực, nhưng sau đó sẽ được sắp xếp để người thắng cuộc trông giống như là người thừa kế thích hợp. Người Tswana gói gọn ý tưởng này qua một câu nói, cho thấy một nét thoảng qua của nền quân chủ lập hiến: kgosi ke kgosi ka morafe (Vua là vua theo ân huệ của dân).
Sau chuyến viếng thăm Luân Đôn, các thủ lĩnh Tswana tiếp tục cố gắng duy trì nền độc lập của mình với Vương quốc Anh và bảo tồn thể chế bản địa. Họ cho phép thi công đường sắt ở Bechuanaland, nhưng hạn chế sự can thiệp của người Anh vào những khía cạnh khác của đời sống kinh tế và chính trị. Cả ba không phản đối việc thi công đường sắt, chắc chắn không phải với những lý do mà vua của Áo-Hung và Nga đã ngăn chặn đường sắt. Tuy nhiên, họ nhận ra rằng đường sắt, cũng như các chính sách khác của Anh, sẽ hạn chế sự phát triển của Bechuanaland, một khi mà vùng đất này vẫn còn bị thực dân thống trị. Lý do của việc này có thể được giải thích qua những kinh nghiệm ban đầu của Quett Masire, tổng thống quốc gia Botswana độc lập từ 1980 đến 1988. Vào những năm 1950, Masire là một chủ trang trại quả cảm, dám nghĩ dám làm; ông phát triển phương pháp trồng trọt mới cho cây lúa miến và tìm được một khách hàng tiềm năng là công ty xay nghiền Vryburg, ở bên kia biên giới với Nam Phi. Ông đến gặp chủ nhà ga xe lửa tại Lobatse, Bechuanaland, và hỏi thuê hai xe tải để vận chuyển nông sản tới Vryburg. Người chủ từ chối. Sau đó ông nhờ một người bạn da trắng can thiệp. Người chủ cuối cùng đồng ý, dù còn e dè, nhưng bắt Masire trả gấp bốn lần giá dành cho người da trắng. Masire rút lui và kết luận: “Không chỉ pháp luật, mà chính những tập quán của người da trắng đã hạn chế người châu Phi sở hữu đất trống hoặc có giấy phép kinh doanh và chính điều đó đã không cho phép người da đen phát triển kinh doanh tại Bechuanaland”.
Nhìn chung, các vị thủ lĩnh, và người Tswana, đã may mắn. Họ ngăn chặn thành công việc Rhodes chiếm đất của mình nhờ vào quá trình phản kháng kịch liệt. Do Bechuanaland vẫn chỉ là “râu ria” đối với người Anh, sự sáng lập của những điều luật gián tiếp ở đây không đi theo một vòng tròn luẩn quẩn như ở Sierra Leone. Tswana cũng tránh được sự bành trướng thực dân vốn đang xảy ra ở Nam Phi, việc đất đai bị biến thành các hồ nước lớn cũng như những công việc lao động chân tay rẻ mạt cho chủ mỏ hay chủ trang trại người da trắng đã không xảy ra. Bước đầu tiên của quá trình thực dân hóa là một miếng ghép then chốt trong hầu hết các xã hội và là một thời kỳ quan trọng ảnh hưởng đến kết quả lâu dài của sự phát triển kinh tế và chính trị. Như chúng ta đã thảo luận trong chương 9, hầu hết các cộng đồng ở vùng châu Phi hạ Sahara, cũng giống như cộng đồng ở Nam Mỹ và Nam Á, đã chứng kiến việc thành lập hoặc tăng cường các thể chế chiếm đoạt trong quá trình thực dân hóa. Trong khi đó, người Tswana cũng tránh được sự cai trị gián tiếp khắc nghiệt và viễn cảnh tồi tệ hơn đã có thể giáng xuống đầu họ nếu như Rhodes thôn tính được vùng đất này. Tuy nhiên, đây không đơn thuần là sự may mắn. Một lần nữa đó là thành quả của sự tương tác giữa các thể chế hiện hành - được định hình bởi sự phân hóa thể chế của người Tswana - với những thời điểm quan trọng mà chủ nghĩa thực dân đem lại. Ba vị thủ lĩnh đã tự tạo ra may mắn cho riêng mình bằng việc chớp lấy thời cơ và đi đến Luân Đôn. Tất nhiên cả ba chỉ có thể làm được điều đó nhờ vào mức độ thẩm quyền hy hữu đối với các thủ lĩnh bộ lạc ở vùng châu Phi hạ Sahara (dựa vào sự tập trung hóa quyền lực chính trị mà các bộ lạc người Tswana đã đạt được) và mức độ chính đáng hiếm có (do thể chế bộ lạc của họ đã có được chút ít tính đa nguyên).
Có một thời khắc quyết định khác vào cuối thời kỳ thực dân được coi là cốt lõi hơn đối với sự thành công của người Botswana, giúp cho đất nước này có khả năng phát triển thể chế dung hợp. Vào thời điểm Bechuanaland giành được độc lập vào năm 1966 dưới cái tên Botswana, sự thành công may mắn của ba vị thủ lĩnh Sebele, Bathoen và Khama đã chìm vào quá khứ. Người Anh chỉ đầu tư nhỏ giọt vào Bechuanaland trong thời kỳ can thiệp của mình. Khi giành được độc lập, Botswana trở thành một trong những nước nghèo nhất thế giới, khi cả nước chỉ có tổng cộng 12km đường trải nhựa, 22 sinh viên đã tốt nghiệp đại học và 100 học sinh tốt nghiệp cấp trung học cơ sở. Và tệ nhất, Botswana bị bao vây bởi chế độ thống trị của người da trắng ở Nam Phi, Namibia và Rhodesia, và tất cả đều tỏ ra chống đối ý định để người da đen lãnh đạo các nước Nam Phi độc lập. Ít ai vào thời điểm đó dám nghĩ rằng Botswana sẽ trở thành một quốc gia phát triển. Tuy nhiên chỉ 45 năm sau, Botswana đã nằm trong số những nước phát triển nhanh nhất thế giới. Ngày nay, Botswana có tỷ lệ thu nhập bình quân đầu người cao nhất ở vùng châu Phi hạ Sahara và sánh ngang tầm với những nước Đông Âu thịnh vượng như Estonia và Hungary, và những nước Mỹ La-tinh phồn thịnh nhất, như Costa Rica.
Botswana đã làm thế nào để thoát khỏi chiếc khuôn đúc sẵn? Đó là nhờ việc nhanh chóng phát triển các thể chế kinh tế và chính trị dung hợp ngay sau khi giành được độc lập. Kể từ thời điểm đó, Botswana đã trở thành một nước dân chủ, tổ chức các cuộc bầu cử thường xuyên và mang tính cạnh tranh, đảm bảo được sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô và khuyến khích sự phát triển của một nền kinh tế thị trường dung hợp. Và tất nhiên, một câu hỏi hóc búa hơn, làm thế nào mà Botswana giữ được một nền dân chủ và các thể chế đa nguyên vững vàng, và lựa chọn thể chế kinh tế dung hợp trong khi hầu hết các nước châu Phi khác đều làm ngược lại? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải hiểu được cách thức thời điểm quan trọng, trong trường hợp này là sự kết thúc thống trị của chế độ thực dân, đã tương tác với thể chế hiện hữu của Botswana như thế nào.
Ở hầu hết khu vực châu Phi hạ Sahara - ví dụ như Sierra Leone và Zimbabwe - nền độc lập là một cơ hội đã bị bỏ lỡ, thêm vào đó là việc tái thiết lập các thể chế chiếm đoạt đã từng tồn tại trong thời kỳ thực dân. Trong khi đó, giai đoạn đầu của thời kỳ độc lập ở Botswana diễn rất khác biệt, lý do lớn nhất, một lần nữa, chính là vì bối cảnh do các thể chế lịch sử của người Tswana tạo dựng. Trong quá trình này, Botswana đã cho thấy một số điểm tương đồng với nước Anh, khi nước này tới gần thời điểm của cuộc Cách mạng Vinh quang. Nước Anh đã nhanh chóng tập trung hóa chính trị dưới thời Tudor và có được Đại Hiến chương cũng như truyền thống của Quốc hội Anh vốn đã có khả năng chế ngự phần nào quyền lực của nhà vua và đảm bảo một mức độ đa nguyên nhất định. Tương tự, Botswana cũng đã tập trung hóa được toàn bang và thiết lập thể chế bộ lạc mang tính đa nguyên tương đối, thể chế đã vượt qua chế độ thực dân để tồn tại đến tận lúc này. Một liên minh mới và rộng lớn đã được thành lập ở nước Anh, bao gồm những người ủng hộ quyền sở hữu tư nhân như các thương nhân ở Đại Tây Dương, các ông chủ của một số ngành công nghiệp và quý tộc nhỏ có tài kinh doanh. Botswana cũng có liên minh của những thủ lĩnh Tswana và những người có vị thế trong xã hội, tức là những người có gia súc - tài sản lớn nhất của nền kinh tế - để ủng hộ cho việc đảm bảo những quyền có tính chất thủ tục (procedural rights). Ở các bang Tswana, mặc dù đất đai được xem là tài sản công cộng, gia súc lại là tài sản cá nhân, và như vậy có thể nói những thành phần nêu trên ủng hộ quyền sở hữu tư nhân. Và dòng chảy của lịch sử là điều không thể chối bỏ. Ở Anh, kết cục có thể đã khác đi nếu như những người lãnh đạo Quốc hội và vị tân vương lợi dụng cuộc Cách mạng Vinh quang để chiếm lấy quyền lực. Tương tự, mọi chuyện có thể đã khác nếu Botswana không có các nhà lãnh đạo như Seretse Khama hoặc Quett Masire, những người đã chọn con đường bầu cử công khai thay vì lật đổ bộ máy tuyển cử như cách mà một số nhà lãnh đạo khác ở khu vực châu Phi hạ Sahara đã làm sau khi những nước này giành được độc lập.
Tswana ở thời điểm giành độc lập đã có truyền thống về thể chế hạn định quyền lực của tù trưởng và đảm bảo trách nhiệm của tù trưởng đối với người dân. Tất nhiên ở châu Phi không chỉ có Tswana có thể chế đó, nhưng điều nổi bật là thể chế này sống sót được qua giai đoạn thuộc địa. Sự thống trị của Anh không còn, Bechuanaland được điều hành từ Mafeking, thuộc Nam Phi, và chỉ trong thời kỳ quá độ sang độc lập những năm 1960 thì những kế hoạch cho thủ đô Gaberone mới được đặt ra. Việc xây dựng thủ đô và các công trình kiến trúc mới không nhằm để xóa bỏ thể chế của người bản địa, mà đã dựa vào nó; trong quá trình xây dựng Gaborone, các kgotla mới cũng được lên kế hoạch xây dựng.
Nền độc lập ở Botswana cũng đến một cách tương đối có trật tự. Đảng Dân chủ Botswana (BDP), được thành lập năm 1960 bởi Quett Masire và Seretse Khama, dẫn đầu cuộc đấu tranh giành lại độc lập. Seretse Khama là cháu trai của vua Khama III, trong đó “Seretse” có nghĩa là “đất sét rắn lại với nhau”. Có lẽ không có cái tên nào hợp với tính cách của ông hơn thế nữa. Khama đã thừa hưởng chức tù trưởng Ngwato; hầu hết các tù trưởng và những nhóm người đứng đầu của Tswana đều gia nhập Đảng Dân chủ Botswana. Botswana lúc này vẫn chưa có một ủy ban vật giá nào, do nước Anh không mấy quan tâm đến thuộc địa này. Đảng BDP nhanh chóng lập ra Ủy ban Thịt (Meat Commission) của Botswana. Thay vì sung công tài sản của các chủ trang trại và chủ gia súc, Ủy ban Thịt đóng vai trò chính trong việc phát triển nền kinh tế gia súc: cho đóng hàng rào nhằm kiểm soát bệnh tay chân miệng, quảng bá việc xuất khẩu hàng hóa, đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế và vận động cho thể chế kinh tế dung hợp.
Mặc dù ban đầu Botswana phát triển dựa trên việc xuất khẩu thịt, mọi việc thay đổi hoàn toàn khi người ta tìm ra kim cương. Việc quản lý tài nguyên thiên nhiên ở Botswana cũng có nhiều khác biệt so với các nước châu Phi khác. Trong giai đoạn thuộc địa, các tù trưởng Tswana ngăn chặn việc khai thác khoáng sản ở Bechuanaland vì họ biết rằng nếu người châu Âu phát hiện ra kim loại hay đá quý, họ sẽ không còn quyền tự trị nữa. Lần khai thác kim cương quy mô lớn đầu tiên diễn ra trên đất Ngwato, quê hương của Seretse Khama. Trước khi công bố cuộc khai thác này, Khama đã đưa ra một sửa đổi trong bộ luật để tài nguyên tìm thấy dưới lòng đất thuộc về quốc gia thay vì bộ lạc. Việc này đảm bảo kim cương tìm thấy ở Botswana sẽ không tạo ra những chênh lệch quá lớn, đồng thời tạo lực đẩy cho quá trình tập trung hóa toàn bang vì nguồn lợi từ việc khai thác kim cương được dùng vào việc xây dựng bộ máy chính quyền trung ương và cơ sở vật chất cũng như để đầu tư cho nền giáo dục. Ở Sierra Leone và nhiều nước châu Phi hạ Sahara khác, kim cương châm ngòi cho mâu thuẫn giữa các băng đảng và các cuộc nội chiến kéo dài: tên gọi “Kim cương máu” ra đời vì sự tàn phá mà những cuộc tranh giành quyền kiểm soát chung mang lại. Nhưng ở Botswana, nguồn lợi từ kim cương được sử dụng vào lợi ích quốc gia.
Thay đổi trong quyền kiểm soát kim cương không phải là chính sách xây dựng nhà nước trung ương duy nhất mà Seretse Khama ban hành. Đạo luật về cương vị tù trưởng năm 1965 được Hội đồng lập pháp thông qua trước khi giành được độc lập, và đạo luật bổ sung về cương vị tù trưởng năm 1970 tiếp tục quá trình tập trung hóa quyền lực chính trị, bảo vệ quyền hạn của trung ương và vị tổng thống đắc cử bằng cách lấy đi quyền phân bổ đất đai của các tù trưởng và cho phép tổng thống có quyền cách chức các tù trưởng nếu cần thiết. Một mặt khác của quá trình tập trung hóa quyền lực chính trị là nỗ lực đẩy mạnh thống nhất đất nước, ví dụ, ban hành luật để đảm bảo rằng trường học chỉ dạy tiếng Setswana và tiếng Anh. Ngày nay Botswana là một đất nước thống nhất hoàn toàn, không có sự chia rẽ về sắc tộc và ngôn ngữ như nhiều nước châu Phi khác. Đây là kết quả của chính sách chỉ cho phép trường học dạy tiếng Anh và tiếng Setswana, ngôn ngữ quốc gia, nhằm giảm thiểu xung đột giữa các bộ lạc và các nhóm khác nhau trong xã hội. Đợt điều tra dân số gần đây nhất có câu hỏi về nguồn gốc dân tộc là vào năm 1946 và đã cho thấy sự đa sắc tộc đáng kể ở Botswana. Ví dụ, ở khu bảo tồn Ngwato, chỉ 20% dân số tự nhận là người Ngwato thuần túy; bên cạnh nhiều tộc người khác nhau của Tswana, ở đó còn có nhiều tộc người không thuộc Tswana và ngôn ngữ của những tộc người này không phải là Setswana. Sự đa dạng về chủng tộc này được điều chỉnh bởi các chính sách của chính phủ hậu độc lập và bằng thể chế dung hợp của các bộ lạc Tswana, giống như cách chính quyền Anh điều chỉnh sự không đồng nhất giữa người Anh và người Welsh ở Anh. Từ khi độc lập, những cuộc điều tra dân số ở Botswana không còn đặt ra câu hỏi về sắc tộc, vì ở Botswana mọi người đều là người Tswana.
Nhờ có Seretse Khama, Quett Masire và Đảng Dân chủ Botswana dẫn dắt đất nước tiến tới thể chế chính trị và kinh tế dung hợp, Botswana đã đạt được tốc độ phát triển cao đáng kể. Việc khai thác được kim cương vào những năm 1970 không dẫn đến nội chiến mà còn mang lại một nền tảng kinh tế vững chắc để đầu tư vào các dịch vụ công. Ngày càng có ít động cơ khiến người dân chống lại hay lật đổ chính quyền. Thể chế chính trị dung hợp mang lại sự ổn định chính trị và hỗ trợ cho chế độ kinh tế dung hợp. Theo mô hình tương tự của vòng xoáy đi lên như đã trình bày ở chương 11, thể chế kinh tế dung hợp đã tăng cường khả năng tồn tại và độ bền vững của thể chế chính trị dung hợp.
Botswana khác biệt vì đã nắm bắt được thời điểm quyết định - thời kỳ độc lập hậu thuôc địa - và thiết lập được thể chế chính trị dung hợp. Đảng Dân chủ Botswana và những yếu nhân lịch sử, trong đó có Khama, đã không thiết lập một chế độ độc tài hay một thể chế chiếm đoạt. Như vậy, đây là kết quả của sự tương tác giữa một thời điểm quyết định và một thể chế hiện hữu. Như đã chỉ ra ở phía trên, khác hẳn với những nơi khác ở khu vực hạ Sahara châu Phi, thể chế bộ lạc của Botswana đã đạt tới một mức độ thành công nhất định trong việc tập trung hóa chính quyền và có được những đặc điểm quan trọng của chủ nghĩa đa nguyên. Ngoài ra, quốc gia này cũng có một nhóm người quyền lực, thành phần sẽ giành được nhiều lợi ích từ quyền sở hữu được đảm bảo.
Việc tiến trình lịch sử vận động theo hướng thuận lợi cho Botswana là một điều không kém phần quan trọng. Một điểm cực kỳ may mắn là Seretse Khama và Quett Masire không phải là Siaka Stevens và Robert Mugabe. Khama và Masire đã cống hiến tận tụy và trung thực nhằm xây dựng thể chế dung hợp dựa trên nền tảng là thể chế bộ lạc của người Tswana. Tất cả những điều đó đã giúp Botswana vững bước trên con đường tiến tới thể chế dung hợp, trong khi đa phần các quốc gia còn lại ở khu vực hạ Sahara hoặc đã thất bại hoặc thậm chí chưa từng cố gắng.
Nguồn: Daron Acemoğlu, James A. Robinson (2012). Vì Sao Các Quốc Gia Thất Bại. Trần Thị Kim Chi dịch, Vũ Thành Tự Anh hiệu đính. NXB Trẻ. Nguyên tác: Why Nations Fail (2012)