Hiến pháp trị là gì? (Phần 3)

Hiến pháp trị là gì? (Phần 3)

Có lẽ nhiều người nhận thấy phiên tòa luận tội cựu tổng thống Bill Clinton đã được điều khiển bởi Thượng Nghị Viện Hoa Kỳ, chứ không phải Tối Cao Pháp Viện.[1] Sao lại như thế? Tại sao cơ quan lập pháp lại có quyền tư pháp? Có phải sự sắp xếp này đã vi phạm nguyên tắc cách ly quyền lực? Đối với câu hỏi cuối, câu trả lời do thành viên Nhóm Liên bang đưa ra là không. Các thành viên Nhóm Liên bang đưa ra nhiều lý do tại sao Thương Nghị Viện thay vì Tối Cao Pháp Viện lại hợp lệ khi tố tụng tổng thống. Thứ nhất, việc luận tội và cách chức một vị Tổng thống về bản chất là một vấn đề chính trị. Vấn đề chính trị cần phải được giải quyết bằng quá trình chính trị trong chiều hướng có trách nhiệm một cách dân chủ. Luận tội [một viên chức dân cử] bằng thẩm phán, vốn không được dân bầu lên, không phải là một giải pháp dân chủ . Thứ nhì, Tổng thống do dân bầu lên, nhưng quan tòa lại không phải vậy. Đối diện với vấn đề cực kỳ khác thường này là có nên cách chức một tổng thống được tuyển cử dân chủ, các quan tòa không được dân bầu sẽ thiếu hẳn sự vững mạnh, uy tín và có phong thái quyền lực để ra quyết nghị. Thứ ba, với vấn đề có tầm quan trọng như thế, có được sự ủng hộ của quần chúng rất quan trọng. Để thu thập sự ủng hộ của quần chúng, cần phải ảnh hưởng được dư luận quần chúng. Tòa án, gồm các thẩm phán không do dân bầu ra, không được trang bị để gây ảnh hưởng tới quần chúng. Thật ra, thẩm phán trên nguyên tắc phải cách ly khỏi các xúc cảm của quần chúng. Trái lại, các Thượng Nghị Sĩ, vốn là đại biểu cho nhân dân tại các tiểu bang, rất thích hợp để gây ảnh hưởng tới ý kiến quần chúng. Thứ tư, cần phải vô cùng thận trọng khi quyết định xem có nên cách chức Tổng thống không. Đối với vấn đề nguy kịch như thế và với quá nhiều thận trọng, tốt nhất là nên làm cho quá trình tạo quyết định càng an toàn càng hay. Càng có nhiều người tham gia vào quá trình tạo quyết nghị càng an toàn hơn. Tối Cao Pháp Viện, theo Hamilton, có quá ít thành viên (tổng cộng chỉ có chín vị chánh án). Thứ năm, phiên tòa tố tụng điều khiển bởi Thượng Nghị Viện ngăn ngừa tình trạng bất khả trùng tố.[2] Nói cách khác, Tổng thống sẽ không bị xét xử hai lần bởi Tòa Án. Nếu Tổng thống bị cách chức, ông ta vẫn “có khả năng bị khởi tố và trừng phạt theo tiến trình luật pháp thông thường.” Nếu Tòa Án được phép xử cả tội danh phản bội lẫn tội danh pháp lý thông thường, theo Hamilton, thì “thành kiến mạnh mẽ của một quyết định sẽ có khuynh hướng bác bỏ ảnh hưởng của bất kỳ ánh sáng mới nào” có thể lộ ra sau phiên tòa tội phản bội nhưng trước khi các tội danh thông thường được xét xử (LCLB, số 65 và 66).

Có ít nhất hai bài học mà chúng ta có thể rút tỉa từ phương thức luận tội tổng thống tại nước Mỹ. Thứ nhất, nguyên tắc phân ngăn quyền lực không bao hàm phân ngăn toàn bộ và tuyệt đối của các chức năng trong chính quyền. “Hỗn hợp cục bộ” trong quyền lực đôi khi được mong ước và ngay cả thật cần thiết để phục vụ cho một số mục đích đặc biệt. Thứ nhì, có một số suy xét xác đáng cho hình thức hợp hiến của chính quyền, và bản hiến pháp cũng phục vụ một số mục đích khác nhau. Quá trình tạo dựng hiến pháp thực sự chính là sự cân bằng giữa những yêu cầu đối kháng trong một chính quyền có trách nhiệm và hữu hiệu.

Bức tường quan trọng bảo vệ cơ cấu hợp hiến tự do chính là ở cơ chế độc lập có thẩm quyền duyệt xét tính hợp hiến của một đạo luật hợp hiến, và thường ở dưới dạng giám sát pháp lý độc lập. Giám sát pháp lý là gì? Giám sát pháp lý là “quyền hạn của tòa án để duyệt xét lại quyết nghị của cơ quan khác hoặc các cấp chính quyền khác [xem có hợp hiến hay không]” (theo Tự Điển Luật Pháp của Black). Một cách cụ thể, giám sát pháp lý là quyền hạn của tòa án để xem lại đạo luật cơ quan lập pháp và nghị định (quy định chung hoặc các đạo luật đặc trưng) của bên hành pháp. Trong hệ thống liên bang như tại Hoa Kỳ, giám sát pháp lý còn bao gồm quyền hạn của tòa án liên bang trong việc duyệt xét các đạo luật của chính quyền tiểu bang (kể cả lập pháp lẫn hành pháp) xem có khả năng vi phạm vào Hiến Pháp của liên bang và các đạo luật khác của liên bang không. Tất nhiên, muốn có giám sát pháp lý, trước hết một cá nhân hay thực thể phải tiến hành việc tố tụng ra tòa vì không thừa nhận một đạo luật của lập pháp hay một quyết định hành chính nào đó.

Ở Hoa Kỳ, một trong những thẩm quyền chính và thẩm quyền tối thượng mà tòa án dựa vào để điều khiển việc giám sát pháp lý chính là Bản Hiến Pháp Hoa Kỳ. Tòa án Hoa Kỳ có quyền vô hiệu hóa các đạo luật lập pháp hay hành chính của các cơ quan khác vì nó vi phạm vào Hiến Pháp. Tòa án Hoa Kỳ cũng được hưởng độc quyền diễn giải Hiến Pháp. Nói chung đây là sự thật tại cả hai cấp liên bang và tiểu bang. Tức là, tương tự như tòa án liên bang, tòa án tiểu bang thường có quyền diễn giải hiến pháp tiểu bang và tái xét các đạo luật của cơ quan lập pháp tiểu bang và những nhánh khác trong chính quyền tiểu bang. Nhờ vào quyền giám sát pháp lý độc lập, tòa án Hoa kỳ, gồm những chánh án độc lập chuyên vào việc suy luận luật pháp, trở thành bức tường che chắn cho những xâm phạm lập pháp hoặc hành chính trên ngôn từ và tinh thần của Bản Hiến Pháp Hoa Kỳ. Do đó, mức tối thượng của Hiến Pháp được bảo vệ.

Tất nhiên có câu hỏi nổi lên tại đây. Làm thế nào để kiềm chế các quan tòa? Làm cách nào ngăn ngừa các xâm phạm tư pháp lên ngôn từ và tinh thần của hiến pháp? Trong Bản Hiến Pháp Hoa Kỳ, có rất nhiều điều hạn chế thẩm quyền của các quan tòa. Thứ nhất, chánh án liên bang có thể bị Quốc Hội luận tội và bị Thượng Viện cách chức bởi vì lạm quyền. Thứ nhì, sự tự chế tư pháp và tuân theo các tiền lệ là nền văn hóa luật pháp của Mỹ và cũng chính là tiêu chuẩn hành xử tư pháp trong hệ thống thông luật của Hoa Kỳ. Thứ ba, các điều lệ về diễn giải luật pháp áp đặt một hạn chế tư pháp khác lên quyền hạn của quan tòa [chứ không phải quan tòa muốn diễn giải thế nào cũng được]. Thứ tư, sự phê bình sắc bén và đúng lúc của các học giả và các luật gia về các quyết định và lý luận của các thẩm phán, cộng với sự theo dõi rộng rãi của giới truyền thông, cũng khiến cho việc kỷ luật quan tòa được hữu hiệu. Cuối cùng, các tổ chức chuyên môn của các thẩm phán và luật sư cũng thường có các biện pháp chế tài nghề nghiệp đối với các hội viên phạm kỷ luật.

Có lẽ so sánh hệ thống hiến pháp Trung Quốc với hệ thống hiến pháp Hoa Kỳ sẽ làm vấn đề sáng tỏ hơn. Ở Trung Quốc, cơ quan lập pháp quốc gia (Quốc Hội Nhân Dân) có quyền viết, sửa đổi và thêm thắt vào Hiến Pháp. Nói cách khác, Hiến Pháp Trung Quốc là sản phẩm của Quốc Hội Nhân Dân, lẽ ra phải ngược lại mới đúng. Quốc Hội Nhân Dân cũng có độc quyền diễn giải Hiến Pháp. Quốc Hội Nhân Dân, bộ phận tối cao của quốc gia, nằm trên cơ quan hành pháp (Hội Đồng Quốc Gia) và tư pháp (Tòa Án Nhân Dân). Không có nguyên tắc cách ly quyền lực hay kiểm soát và cân bằng quyền lực bởi vì Quốc Hội Nhân Dân nằm trên tất cả và trên lý thuyết là tuyệt đối. Cơ quan tư pháp không đứng độc lập ngoài ý muốn của Quốc Hội Nhân Dân, và hầu như không hề có giám sát pháp lý (ngoại trừ Đạo Luật Tố Tụng Hành Chính chỉ cho phép tòa án duyệt xét lại một số luật hành chính cụ thể của các cơ quan hành pháp trong chính quyền). Cuối cùng, cơ quan giám sát pháp lý hiện hành, [hoạt động] trong phạm vi rất giới hạn, lại không được dùng hiến pháp để phán xét các điều tranh tụng có hợp hiến hay không. Nói cách khác, Trung Quốc không có nền luật học về hiến pháp.

Chúng ta hãy quay sang thành tố thứ nhì của thuyết hiến pháp trị tự do, đó là bảo vệ dân quyền. Bản Hiến Pháp Hoa Kỳ năm 1787 không có Đạo Luật Dân Quyền. Thật ra, sự vắng mặt của Đạo Luật Dân Quyền chính là điều mà những nhà đối lập với Hiến Pháp 1787 phản đối. Nhóm Liên bang, khi bảo vệ cho Hiến Pháp 1787, đã lập luận rằng vào năm 1787 không cần có Đạo Luật Dân Quyền trong Hiến Pháp. Một trong những lý do Nhóm Liên bang nêu ra là một đạo luật liệt kê dân quyền thật ra có thể bị một chính quyền độc tài lợi dụng để làm lý do bào chữa cho sự xâm phạm những quyền không nằm trong bảng liệt kê các quyền được bảo vệ. Nhóm Liên bang thắng thế năm 1787, nhưng đến năm 1791, quan điểm này không còn được chấp nhận nữa và Hiến Pháp Hoa Kỳ được sửa đổi để thêm vào Đạo Luật Dân Quyền, với mười tu chính án tiên khởi.

Nhân tố chính yếu trong hệ thống hợp hiến về quyền dân sự và quyền chính trị là các quan tòa. Độc lập tư pháp và giám sát pháp lý không những quan trọng cho việc bảo tồn mức tối thượng của Hiến Pháp và hệ thống kiểm soát và cân bằng quyền lực hợp hiến, mà còn quan trọng trong việc bảo vệ các quyền cá nhân. Chánh án Hoa Kỳ không nằm dưới sự kiểm soát của bất kỳ cơ quan chính quyền nào, và họ cũng không bị hạn chế bởi ý muốn tạm thời của quần chúng vì họ không phải là viên chức được tuyển cử và họ có nhiệm kỳ suốt đời. Họ có thể bảo vệ quyền lợi dân chúng và duy trì công lý, đôi khi có thể đi ngược lại ý muốn của quần chúng, chính vì họ không phải lo âu đến chuyện tái tuyển cử hay cắt giảm lương bổng – lương bổng của chánh án chỉ gia tăng trong suốt nhiệm kỳ của họ – và họ không bị tùy nghi quản chế bởi các cơ quan khác trong chính quyền. Độc lập tư pháp và giám sát pháp lý là phần tử chính yếu trong hệ thống bảo vệ dân quyền tại Hoa kỳ.

Làm thế nào để toà án bảo vệ các quyền hiến định? Một thí dụ có thể giúp chúng ta. Tu Chính Án Thứ Năm trong Bản Hiến Pháp Hoa Kỳ nói rằng “không cá nhân nào bị … tước đoạt mạng sống, tự do, hay tài sản mà không theo đúng thủ tục tố tụng.” Tu Chính Án Thứ Mười Bốn nói “không chính quyền nào được … tước đoạt mạng sống, tự do, tài sản của bất cứ ai mà không theo đúng thủ tục tố tụng.” Vậy thủ tục tố tụng là gì? Nói tóm tắt, thủ tục tố tụng nghĩa là các quyền [của người dân] được ghi trong một thủ tục nhất định, như quyền được thông báo, quyền được hầu tòa, quyền được hội thảo với luật sư, quyền được có quan tòa chính trực vô tư, v.v…, mà mỗi công dân đều có khi mạng sống, tự do hay tài sản của người đó phải trực diện với việc bị tước đoạt bởi chính quyền theo các điều luật nào đó. (Còn một khái niệm gọi là “thủ tục tố tụng bản thể” trong luật học hiến pháp ở Mỹ, nhưng học thuyết này phần lớn đã mai một). Thủ tục tố tụng còn có những bảo vệ bằng thủ tục khác nhau trong phạm vi khác nhau, nhưng ý nghĩa cốt lõi của nó vẫn tương tự. Khái niệm căn bản là mỗi cá nhân thừa hưởng sự bảo vệ theo một thủ tục nhất định khi người đó phải đối diện với quyền lực cưỡng chế của chính quyền. Trên cơ bản, khái niệm này rất phóng khoáng. Chánh án Hoa Kỳ, độc lập với các nhánh khác trong chính quyền cũng như không bị ý kiến quần chúng ảnh hưởng, có toàn quyền để bảo đảm cho mỗi cá nhân đều được hưởng những bảo vệ theo thủ tục trước khi mạng sống, tự do hay tài sản của họ bị chính quyền tước đoạt.

Thủ tục tố tụng là một khái niệm nằm dưới một khoản lớn hơn, đó là công-lý-theo-thủ-tục. Như chúng ta đã bàn thảo trong tiểu luận trước, có hai loại công lý. Một là công-lý-theo-thủ-tục, và một là công-lý-theobản-thể. Công-lý-theo-thủ-tục nghĩa là chỉ có thủ tục và tiến trình, công-lý-theo-bản-thể nghĩa là chỉ có kết quả và đáp số. Thí dụ, nếu quả thật đã có kẻ sát hại người khác, công-lý-theo-bản-thể đòi hỏi kẻ sát nhân phải bị trừng phạt bởi luật pháp. Tuy nhiên, nếu kẻ sát nhân bị cảnh sát tra tấn bất hợp pháp khiến hắn thú tội và, nhờ vào lời tự thú này, cảnh sát tìm ra chứng cớ thuyết phục (chẳng hạn như án khí, xác chết nạn nhân, v.v…) khiến tòa án buộc tội kẻ sát nhân (kết quả là có công-lý-theo-bản-thể), nhưng không có công-lý-theo-thủ-tục vì quá trình tìm ra tội trạng đã vi phạm quyền căn bản của kẻ sát nhân, một công dân, trước khi bị kết án, vẫn thừa hưởng trọn vẹn sự bảo vệ của Đạo Luật Dân Quyền.

Như thế, một kết quả có thể xảy ra trong thí dụ sát nhân của chúng ta là bồi thẩm đoàn sẽ không có đủ chứng cớ để buộc tội kẻ sát nhân. Dưới bộ luật hoàn chỉnh về tiến trình hình luật tại Hoa Kỳ, lời tự thú của kẻ sát nhân cũng như các chứng vật tìm được nhờ vào lời tự thú đó sẽ không được chấp nhận là bằng chứng tại tòa, vì chúng đều là hậu quả trực tiếp của vi phạm to lớn vào các quyền cá nhân căn bản. Nói cách khác, quan tòa sẽ “loại trừ” lời tự thú cũng như các chứng vật ra khỏi chứng cớ hầu để, thứ nhất, bảo đảm quá trình luận tội công bằng và đúng đắn; thứ hai, để bảo vệ quyền lợi cá nhân hợp hiến. Điều luật cho phép quan tòa loại bỏ các chứng cớ thu thập không đúng luật chính là sự bảo vệ mạnh mẽ cho dân quyền tại Hoa Kỳ.

Xin có lời bình luận tại đây. Muốn cho việc bảo vệ nhân quyền hợp hiến được hoạt động và hữu hiệu, cần phải có một số các định chế căn bản. Thí dụ, điều khoản hiến pháp đòi hỏi thực thi lập pháp và diễn giải tư pháp. Luật pháp, hoặc được tạo ra bởi cơ quan lập pháp hay tìm được bởi quan tòa, bắt buộc phải nêu rõ trách nhiệm luật pháp khi vi phạm quyền lợi cũng như việc bồi thường và thủ tục cho nạn nhân. Tại Trung Quốc, có hai vấn đề khó khăn ở việc bảo vệ quyền cá nhân và thành quả công lý trong phạm vi điều tra hình sự, khởi tố và tuyên án. Thứ nhất, tuy là có tuyên bố chung về quyền cá nhân trong Hiến Pháp Trung Quốc, nhưng trong luật thành văn có rất ít luật lệ đề cập đến hậu quả luật pháp của việc vi phạm dân quyền (thí dụ như sự lạm quyền của công an trong điều tra hình sự). Vì thế, nạn công an lạm quyền trong điều tra hình sự và khởi tố lan tràn, thủ tục và luật lệ đã thiết lập thường bị vặn vẹo và vi phạm, dân quyền không được bảo vệ hữu hiệu, và kết quả thường là sự bất công. Thứ nhì, vì không có điều khoản rõ rệt nào về uy tín của chứng cớ tìm được bất hợp pháp (chẳng hạn như tra khảo) trong việc khởi tố hình sự, các quan tòa hưởng quyền tùy nghi một cách rộng rãi. Quyền tùy nghi không giới hạn của quan tòa Trung Quốc đã góp phần vào những quyết định mâu thuẫn và độc đoán cùng sự hư hoại của tư pháp. Tôi sẽ thảo luận về những định chế cụ thể cần thiết cho và bảo vệ một cách hữu hiệu hiến pháp trị và dân quyền ở tiểu luận trong tương lai.

Trong bài này tôi đã giải thích ý nghĩa của thuyết hiến pháp trị tự do. Trong bài kế (phát hành vào tháng 8), tôi sẽ thảo luận tới liên hệ giữa thuyết hiến pháp trị và pháp trị. Luận đề của tôi sẽ về, thứ nhất, thuyết hiến pháp trị là nền móng cần thiết cho pháp trị; thứ nhì, thuyết hiến pháp trị tự do bảo đảm công lý trên cả nội dung lẫn hình thức của luật pháp; thứ ba, thuyết hiến pháp trị tự do tạo ra cân bằng thích đáng giữa pháp trị và nhân trị; và cuối cùng, thuyết hiến pháp trị được bảo vệ bởi pháp trị.

Tài liệu tham khảo:

1. Hamilton, Alexander, James Madison and John Jay. The Federalist Papers. London: Everyman, 1996.

2. Henkin, Louis. “Elements of Constitutionalism.” Unpublished Manuscript, 2000.

3. Holmes, Stephen. Passions and Constraint: On the Theory of Liberal Democracy. Chicago: University of Chicago Press, 1995.

4. Mahler, Gregory. Comparative Politics: An Institutional and CrossNational Approach. Upper Saddle River, New Jersey: Prentice Hall, 2000.

5. Sartori, Giovanni. The Theory of Democracy Revisited. Chatham, New Jersey: Chatham House, 1987.

Chú thích:

[1] Theo hiến pháp Mỹ, các viên chức chính quyền tiểu bang cũng như liên bang đều có thể bị đưa ra luận tội (impeachment), tức là trả lời cáo buộc về phản quốc hay có hành vi hạnh kiểm xấu. Hạ viện là cơ quan do Hiến pháp chỉ định làm nhiệm vụ này. Sau khi Hạ viện luận tội và kết luận là có tội, Thượng viện sẽ xử vụ án này. Các trường hợp phạm pháp khác (hình sự và dân sự) đều do tòa án thường thụ lý.

[2] Bất khả trùng tố (double jeopardy) là quy luật một người không bị xử hai lần về một tội.

Nguồn bản dịch: Lý Ba. Hiến pháp trị là gì? http://www.icevn.org/vi/HienPhapTriLaGi