[Nhập môn chủ nghĩa tự do cổ điển] Chương 5 - Đạo đức của chủ nghĩa tự do cổ điển

[Nhập môn chủ nghĩa tự do cổ điển] Chương 5 - Đạo đức của chủ nghĩa tự do cổ điển

ÉP BUỘC VÀ KHOAN DUNG

Những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển nhất trí rằng việc cưỡng ép, nói chung, là điều không mong muốn. Việc cho phép một người áp đặt ý chí của mình lên người khác thông qua gây hấn, đe dọa, hăm dọa hay bạo lực sẽ không thể tạo nên xã hội tốt đẹp. Bất kể đó là cá nhân hay chính quyền sử dụng vũ lực – nếu có thể tránh được – thì chúng ta nên tránh.

Tuy nhiên, giữa những con người tự do sẽ luôn tồn tại mâu thuẫn. Họ có thể bất đồng về quyền sở hữu, và hành động của một người đôi khi có thể gây tổn hại cho người khác. Vì lợi ích của việc duy trì trật tự và ngăn ngừa bạo lực, xã hội cần hệ thống công lý công tâm để giải quyết những tranh chấp như vậy và ngăn chặn hành vi xâm hại. Nhưng chúng ta không thể kỳ vọng rằng mọi người sẽ luôn sẵn sàng tuân thủ các phán quyết và quy tắc ấy một cách tự nguyện: để giữ được hòa bình, chúng ta không thể không sử dụng một phần quyền lực cưỡng chế – điều mà những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển vốn rất cảnh giác.

Chủ nghĩa tự do cổ điển giải quyết nghịch lý này bằng cách trao quyền độc quyền sử dụng vũ lực cho nhà nước – một thiết chế mà họ luôn dè chừng, nhưng họ kỳ vọng rằng nhà nước sẽ sử dụng vũ lực một cách vô tư hơn so với những cá nhân bình thường, đấy là nói nếu như quyền đó được để mặc cho mỗi người tự ý hành xử.

Gây hại – chứ không phải đơn thuần là phản đối

Công lý đòi hỏi phải dùng vũ lực; nhưng vũ lực thì cần được biện minh. Và theo quan điểm của những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển, việc sử dụng quyền lực cưỡng chế của thiết chế chỉ đúng đắn khi ngăn chặn một người gây hại hoặc đe dọa gây hại cho người khác – tức là nhằm giảm thiểu bạo lực và cưỡng ép trong xã hội nói chung. Tuy nhiên, điều đó phải là tác hại thực sự, hoặc mối đe dọa gây ra tác hại thực sự đối với người khác. Những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển nhấn mạnh dứt khoát rằng cưỡng ép không thể được biện minh chỉ vì chúng ta không tán đồng với ai đó hay hành vi của họ.

Chúng ta có thể không ưa tôn giáo của người khác, bác bỏ quan điểm chính trị của họ, ghê sợ lối sống của họ, khó chịu trước cách hành xử của họ, hoặc cảm thấy chán ghét những thói quen của họ. Ta có thể thấy sốc trước các ý tưởng và quan điểm mà họ nêu ra. Ta thậm chí có thể lo ngại rằng họ đang làm tổn hại đến sức khỏe của chính mình vì sử dụng ma túy, hay tự hủy hoại tương lai của họ bằng những hành vi phản xã hội. Thế nhưng, không lý do nào trong số đó đủ để biện minh cho việc dùng vũ lực nhằm buộc họ phải thay đổi. Những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển cho rằng: niềm tin, lối sống, cung cách hành xử hay những lựa chọn mang tính đạo đức cá nhân của mỗi người không phải là điều đáng bị trấn áp bằng quyền lực cưỡng chế mạnh mẽ của nhà nước. Ta có thể tự do tìm cách giúp đỡ họ – ví dụ như hỗ trợ họ vượt qua thói quen dùng ma túy – nhưng nếu hành vi của họ không gây hại cho ai khác ngoài chính bản thân họ, thì không thể nào biện minh được việc dùng vũ lực can thiệp.

Cũng vì thế, những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển thường nghi ngờ những lập luận cho rằng con người cần được “giáo dục” để có thể đưa ra những lựa chọn “đúng đắn” hay “có ý nghĩa”. Tất nhiên, người có thông tin tốt hơn – chẳng hạn như về nguy cơ của ma túy hay lượng calo trong thức ăn – có thể đưa ra lựa chọn sáng suốt hơn. Nhưng người theo chủ nghĩa tự do cổ điển cho rằng đa số con người sáng suốt hơn nhiều so với điều mà những người theo chủ nghĩa can thiệp vẫn tưởng. Họ hiểu rõ mục tiêu, cơ hội và hoàn cảnh riêng của bản thân mình hơn bất kỳ chính trị gia nào có thể biết. Và dù họ có bao nhiêu thông tin đi nữa, thì lựa chọn cuối cùng vẫn là phán đoán cá nhân, chứ không phải thứ gì đó có thể bị đánh giá một cách khách quan là “đúng” hay “sai”. Chủ nghĩa tự do cổ điển lo ngại rằng, trong nhiều trường hợp, lập luận “giáo dục” chỉ là một cách nguỵ biện mà những người theo chủ nghĩa can thiệp dùng để áp đặt giá trị của chính họ lên lựa chọn của người khác.

LUẬN CỨ ỦNG HỘ KHOAN DUNG

Những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển có nhiều lý do — cả về mặt đạo đức lẫn thực tiễn — để nhấn mạnh đến lòng khoan dung.

Chi phí và tác hại

Lý do đầu tiên là chi phí khổng lồ khi cố gắng thuyết phục con người từ bỏ những niềm tin và tập quán mà họ thực sự trân quý. Chi phí này có thể là tài chính — chẳng hạn như khoản tiền khổng lồ phải bỏ ra để xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng và thu thuế để chi trả cho các cuộc Thập tự chinh tôn giáo thời Trung Cổ. Hoặc nó có thể là cái giá về con người — như việc những tín đồ Kitô giáo đầu tiên bị chính quyền La Mã quấy rối, các tín hữu Tin Lành bị đàn áp trong thời kỳ Cải cách, hay những người Hồi giáo bị người Kitô giáo Serbia thảm sát vào thập niên 1990.

Như triết gia người Pháp Montesquieu (1689–1755) đã chỉ ra, xác suất đạt được hòa bình sẽ cao hơn nhiều nếu niềm tin tôn giáo không bị chính trị hóa. Tất nhiên, những khác biệt về chính trị cũng đã khiến nhân loại phải trả giá đắt. Chỉ trong vòng hơn một thế kỷ qua, chúng ta đã chứng kiến những cuộc tàn sát trong hai cuộc Thế chiến, cuộc thanh trừng của Stalin tại Liên Xô, cuộc Cách mạng Văn hóa của Mao, các vụ giết người hàng loạt do Khmer Đỏ thực hiện, và còn nhiều nữa.

Vậy cái giá đó có mang lại điều gì không? Con người có thể bị khủng bố, nhưng gần như không thể bị ép buộc thay đổi những niềm tin sâu xa nhất của họ. Và làm sao ta biết được liệu ta có thành công? Như nữ hoàng Elizabeth I của Anh (1533–1603) từng nói: “Chúng ta không thể dựng nên những khung cửa sổ để nhìn vào tâm hồn con người.” Còn theo Thomas Jefferson, ta cũng chẳng cần phải cố gắng như vậy, vì những khác biệt về tín ngưỡng không gây ra tổn hại gì: “Quyền lực chính đáng của chính phủ chỉ nên mở rộng đến những hành vi thực sự gây hại cho người khác. Nhưng nếu người hàng xóm của tôi nói rằng có hai mươi vị thần hay chẳng có vị thần nào, thì điều đó chẳng làm tổn hại gì đến tôi. Nó không móc túi tôi, cũng chẳng làm gãy chân tôi.”

Lợi ích đa dạng

Luận cứ thứ hai của chủ nghĩa tự do cổ điển ủng hộ khoan dung là: chúng ta không thể biện minh cho việc sử dụng vũ lực nhằm thay đổi niềm tin, lối sống hay quan niệm đạo đức của người khác, khi mà bản thân chúng ta cũng không thể thống nhất được điều gì là có thể chấp nhận hay không thể chấp nhận, điều gì là có thể dung thứ hay không thể dung thứ. Như Kant đã lập luận, khi con người bất đồng sâu sắc về những gì có thể dung thứ, thì điều chúng ta cần làm là nỗ lực biện minh quan điểm của mình trước người khác — chứ không phải đơn giản là tìm cách áp đặt chúng lên người khác.

Gần đây hơn, Isaiah Berlin giải thích rằng mỗi cá nhân mang trong mình nhiều giá trị khác nhau — như an ninh, tự do cá nhân, gia đình, của cải, và sự thoải mái — và mỗi người lại sắp xếp thứ tự ưu tiên các giá trị đó theo cách riêng. Do đó, việc họ lựa chọn những lối sống khác nhau có thể hoàn toàn hợp lý. Không có tiêu chuẩn khách quan nào để phân định rằng hệ giá trị của người này thì cao quý hơn của người kia, hay cách sắp xếp các ưu tiên của họ là tốt hơn hoặc kém hơn. Việc coi trọng của cải hơn sự thoải mái, hay đề cao gia đình hơn an toàn — đó chỉ là vấn đề quan điểm. Trong thế giới nơi các mục tiêu nhân sinh muôn hình vạn trạng, không ai có thể đưa ra những lựa chọn đúng cho tất cả mọi người.

Vì vậy, thay vì tìm cách áp đặt quan điểm của mình lên người khác, những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển cho rằng ta phải nhìn nhận người khác như những chủ thể đạo đức, những con người đưa ra lựa chọn có cân nhắc — và do đó, đáng được tôn trọng. Có thể ta không luôn đồng tình với họ, thậm chí không mấy thiện cảm — nhưng ta vẫn nên tôn trọng họ; và họ cũng nên tôn trọng những lựa chọn của ta.

Lợi ích của sự đa dạng

John Stuart Mill lập luận rằng lý do duy nhất để can thiệp vào người khác là nhằm ngăn ngừa tác hại hoặc nguy cơ gây hại; còn sự khác biệt về quan điểm thì không gây tổn hại gì cho những ai biết khoan dung với chúng. Thật vậy, Mill cho rằng có nhiều lý do tích cực khiến chúng ta nên đón nhận — chứ không đàn áp — những quan điểm khác biệt như thế. Ông tin rằng cá tính, tính độc đáo, đổi mới và sự đa dạng trong ý tưởng chính là động lực thúc đẩy quá trình tiến hóa của văn minh nhân loại.

Và ngay cả khi ai đó nêu lên một quan điểm bị phần đông cho là sai lạc, thì nó vẫn có thể mang lại lợi ích. Xét kỹ lại, quan điểm ấy có thể hóa ra lại đúng, hoặc chứa đựng một phần sự thật hay trí tuệ nào đó có thể giúp nâng cao nhận thức chung của xã hội. Dù cho nó là hoàn toàn sai, thì nó vẫn có thể đóng vai trò như một thách thức cần thiết đối với ý kiến đang chiếm ưu thế — vốn, nếu bị chấp nhận một cách mù quáng, có thể suy thoái thành một giáo điều rỗng tuếch. Như Oliver Wendell Holmes từng nhận xét, phép thử tốt nhất của chân lý chính là “thị trường của các ý tưởng”.

Đa dạng và trưởng thành về mặt đạo đức

Một lập luận sâu xa khác cho lòng khoan dung là sự trưởng thành về mặt đạo đức của từng cá nhân. Chẳng hạn, nhà triết học và nhà ngoại giao người Phổ Wilhelm von Humboldt (1767–1835) cho rằng mục đích tối cao của con người là tự tu dưỡng – nên mỗi người cần được tự do tối đa và tiếp cận với một phạm vi trải nghiệm phong phú nhất có thể để hình thành và hoàn thiện bản thân. Nhà nước, theo ông, chỉ nên giữ vai trò như người canh gác ban đêm: bảo vệ con người khỏi bị xâm phạm, nhưng không được can thiệp vào quá trình phát triển nội tâm của họ.

Mill cũng chia sẻ quan điểm đạo đức tương tự. Ông cho rằng sự can thiệp vào hành động của người khác sẽ cản trở quá trình trưởng thành của họ như những con người có đạo lý. Họ sẽ không bao giờ học hỏi và phát triển nếu không được tự mình đưa ra và chịu trách nhiệm cho những lựa chọn của chính mình. Nếu mọi hành động của họ đều do người khác chỉ đạo, thì ta không thể xem họ là những con người có đạo đức đáng kính — mà chỉ như những cỗ máy biết làm theo mệnh lệnh mà thôi.

Kết quả sai lệch

Một luận điểm khác là: các chính sách thiếu khoan dung thường không hiệu quả, hoặc dẫn đến những hệ quả không mong muốn, thậm chí còn phản tác dụng so với ý định ban đầu của người đề xuất.

Ví dụ về sự thiếu hiệu quả, ta đã thấy việc làm lung lay niềm tin tôn giáo của con người là điều vô cùng khó khăn. Tương tự, các nỗ lực lập pháp nhằm hạn chế việc sử dụng ma túy giải trí cũng thường thất bại.

Một ví dụ điển hình về hậu quả không mong muốn là thời kỳ Cấm rượu ở Hoa Kỳ (1920–1933). Được thúc đẩy phần lớn bởi sự phẫn nộ mang tính đạo đức đối với rượu và văn hóa quán nhậu, chính sách này đã đẩy hoạt động buôn bán rượu vào thế giới ngầm, rơi vào tay những kẻ sẵn sàng vi phạm pháp luật. Kết quả là bạo lực băng đảng leo thang, cảnh sát và quan chức bị tha hóa, và luật pháp thì bị khinh thường vì không thể thực thi hiệu quả.

Các lệnh cấm khác đối với những lựa chọn về lối sống — chẳng hạn như mại dâm hay ma túy — cũng để lại những hậu quả tương tự: hình thành các băng đảng ma túy, tranh giành lãnh thổ, và nạn buôn người. Điều trớ trêu là chính vì những hoạt động này bị đẩy vào bóng tối, ra khỏi tầm với của nhà chức trách, nên việc giải quyết các vấn đề thực sự do chúng gây ra — như bệnh lây qua đường tình dục hoặc nghiện ngập — lại càng khó khăn hơn. Những người bình thường vốn tuân thủ pháp luật bị đẩy thành tội phạm, buộc phải giao dịch với tội phạm và đối mặt với nhiều rủi ro, do không có bất kỳ cơ chế kiểm soát chất lượng hay bảo vệ khách hàng nào mà thị trường hợp pháp có thể cung cấp. Trong khi đó, nguồn lực thực thi pháp luật lại bị lãng phí vào những hoạt động không gây hại thực sự cho người khác.

Cuối cùng, có rất nhiều ví dụ cho thấy các chính sách phi tự do đã dẫn đến kết quả trái ngược với mục tiêu của chính chúng. Ví dụ, những nỗ lực nhằm loại bỏ phân biệt đối xử nơi làm việc và bảo đảm sự công nhận đúng đắn cho năng lực đã dẫn tới tình trạng “phân biệt đối xử tích cực”, tức là tuyển dụng dựa trên chỉ tiêu thay vì dựa vào phẩm chất thực sự. Hệ thống giáo dục công lập — vốn được thiết kế để ngăn các nhóm tôn giáo hoặc chính trị thao túng tâm trí giới trẻ —  lại trở thành một hệ thống độc quyền, nơi mà học sinh gần như không có lối thoát nào khỏi tư tưởng chính thống đang thống trị. Tương tự, đàn áp tôn giáo hay chính trị thường chỉ làm dấy lên làn sóng căm phẫn, và cuối cùng bùng phát thành bạo lực chống lại kẻ đàn áp. Tệ hại nhất, những giáo điều ý thức hệ của một nhà nước độc đoán — như Liên Xô trước kia — có thể kìm hãm tiến bộ cá nhân, xã hội và khoa học suốt hàng thập kỷ.

Con dốc trơn trượt

Khi chúng ta sử dụng quyền lực cưỡng chế của nhà nước để đàn áp những ý tưởng, thái độ và hành vi mà ta không chấp thuận, thì sẽ không có một điểm dừng rõ ràng nào. Mill đã cảnh báo về “sự chuyên chế của dư luận thịnh hành”, và giải thích rằng, ngay cả khi toàn thể công chúng tin rằng một số quan điểm hay hành vi nhất định nên bị dập tắt, thì điều đó vẫn không thể là lý do chính đáng để làm như thế. Cần phải luôn giữ gìn “khu vực cá nhân” – nơi cư ngụ của hành động và ý kiến – mà nhà nước không được phép xâm phạm.

Lý do không chỉ vì con người thường đưa ra các quyết định đúng đắn hơn cho chính bản thân mình so với những nhà lập pháp hay công chức xa xôi – bởi họ hiểu rõ hoàn cảnh riêng của mình hơn. Mà còn bởi vì sự dễ dãi trong niềm tin của đa số – rằng chỉ vì họ là số đông, họ có quyền can thiệp vào cuộc đời người khác – sẽ mở đường cho một thứ quyền lực vượt khỏi giới hạn. Khi ấy, số đông, được trang bị các công cụ cưỡng chế của nhà nước, sẽ có quá nhiều không gian để mở rộng sự can thiệp, và cuối cùng là tước đoạt các quyền tự do cơ bản của con người.

Đó chính là một con dốc trơn trượt. Sự can thiệp vào một lĩnh vực đời sống thường sẽ được viện dẫn để biện minh cho sự can thiệp vào các lĩnh vực khác. Và thường thì sự can thiệp của nhà nước lại thất bại, hoặc để lại những hậu quả sai lệch, mà rồi chính những hậu quả đó lại được dùng làm cớ để can thiệp sâu hơn nữa. Ví dụ, chính sách về ma túy – với sự kém hiệu quả và những hệ quả ngoài mong muốn – lại thường được viện dẫn để siết chặt thêm nữa. Nhưng điều đó chỉ làm tăng thêm rủi ro trong việc buôn bán và sử dụng, và khiến những vấn đề phát sinh trở nên nghiêm trọng hơn bao giờ hết.

Vạch ra ranh giới

Vậy chúng ta sẽ vạch ra ranh giới ở đâu? Đâu là giới hạn cho sự can thiệp của nhà nước? Những hành vi nào có thể chấp nhận được, và những hành vi nào thì không? Ví dụ, cha mẹ nên có những quyền gì đối với con cái của mình? Họ có quyền đánh con, thực hiện cắt bao quy đầu cho con, hay thậm chí sử dụng rượu và ma túy trong thời kỳ mang thai hay không? Hoặc rộng hơn, liệu các diễn viên hài và họa sĩ biếm họa có nên có quyền tự do ngôn luận để chế giễu một tôn giáo nào đó, nếu hành vi ấy có thể kích động bạo lực và khiến người vô tội bị tổn hại?

Không có câu trả lời dứt khoát cho những câu hỏi như vậy; mỗi người đều có quan điểm riêng. Việc thu hẹp phạm vi những điều có thể chấp nhận được chính là nhiệm vụ then chốt đối với các nhà tư tưởng của chủ nghĩa tự do cổ điển. Họ muốn quyền lực cưỡng chế của nhà nước được sử dụng một cách chuẩn xác nhất, chỉ nhằm ngăn ngừa và trừng phạt những hành vi thực sự gây hại. Vạch giới hạn đó ở đâu phải là kết quả của tranh luận và thảo luận công khai – chúng ta sẽ thật thiếu khôn ngoan nếu trao quyền quyết định ấy cho giới lãnh đạo chính trị. Còn phần lớn những hành vi có thể chỉ gây ra phiền toái hoặc khó chịu nhỏ cho người khác thì nên là vấn đề của thuyết phục và trao đổi quan điểm, chứ không phải là đối tượng để nhà nước trừng phạt bằng “nắm đấm sắt”.

KHOAN DUNG VÀ NHÀ NƯỚC

Người Hy Lạp cổ đại không có những dè dặt như vậy. Chẳng hạn, Plato (khoảng 427–347 TCN) và Aristotle (384–322 TCN) đều cho rằng nếu điều gì là tốt, thì chính quyền phải thực thi điều đó. Và cho đến ngày nay, vẫn có nhiều người tin rằng luật pháp nên cấm những gì bị cho là vô đạo đức.

Mill thừa nhận rằng nhiều hành vi vô đạo đức có thể gây tổn hại – đó chính là lý do khiến chúng ta coi chúng là vô đạo đức. Tuy nhiên, có những hành vi bị xem là vô đạo đức lại không gây hại cho ai: thậm chí “nạn nhân” được cho là bị hại có thể còn thấy việc đó là có lợi – chẳng hạn như trong trường hợp trợ tử. Việc sử dụng quyền lực cưỡng chế của nhà nước để ngăn cản những hành vi vô hại như vậy sẽ chỉ làm giảm phúc lợi chung của con người.

Tất cả các nhà tư tưởng của chủ nghĩa tự do cổ điển đều hoài nghi đối với quyền lực nhà nước, và những người nghiêng về phía tự do cá nhân (libertarian) lại càng tin rằng nhà nước có nhiều khả năng xâm phạm tự do của chúng ta hơn là bảo vệ nó. Chính vì vậy mà Mill đưa ra nguyên tắc “không gây hại”: nếu chúng ta bắt đầu cấm đoán những điều không gây ra hay đe dọa một tổn hại rõ rệt nào, thì rất có thể chúng ta sẽ kết thúc bằng việc cấm mọi thứ. Đối với Locke hay Jefferson, nhà nước tồn tại là để bảo vệ công dân và mở rộng quyền tự do của họ – chứ không phải để áp đặt cách sống, hay cổ vũ cho một tôn giáo hay bộ quy tắc đạo đức cụ thể nào đó. Đó là lý do tại sao Tu chính án thứ nhất của Hoa Kỳ không chỉ bảo vệ quyền khoan dung tôn giáo, mà còn khẳng định quyền tự do tôn giáo.

Rủi ro và việc sử dụng vũ lực

Tuy nhiên, những người theo chủ nghĩa can thiệp lập luận rằng mọi hành vi đều tiềm ẩn ít nhiều nguy cơ gây hại cho người khác, do đó mỗi trường hợp phải được xét riêng theo từng hoàn cảnh cụ thể. Chẳng hạn, ở nhiều quốc gia, việc hút thuốc bị cấm trong các không gian kín như nhà hàng hay rạp chiếu phim. Lý do phổ biến không phải vì thuốc lá gây hại cho người hút, mà vì những người xung quanh có thể bị ảnh hưởng tiêu cực do hít phải khói thuốc thụ động. Gần đây hơn, việc hút thuốc cũng bị cấm tại các công viên công cộng – nơi mà nguy cơ hít phải khói thuốc là rất nhỏ – nhưng lập luận hiện tại lại là: trẻ em ở công viên có thể thấy người lớn hút thuốc và bắt chước theo, từ đó dẫn đến các hệ lụy sức khỏe lâu dài.

Quá thật, có thể tồn tại những rủi ro như vậy. Nhưng những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển đặt câu hỏi: liệu những rủi ro đó có thực sự nghiêm trọng đến mức phải dùng đến quyền lực cưỡng chế để ngăn chặn? Hay chúng quá nhỏ bé, đến mức không thể biện minh cho sự cưỡng chế, dù là dưới hình thức phạt tiền hay hình phạt khác? Bởi nếu ngay cả những rủi ro cực kỳ nhỏ đối với người khác cũng được xem là lý do chính đáng để nhà nước can thiệp, thì sẽ không còn hành động nào của con người được miễn trừ khỏi sự can thiệp tùy tiện của chính quyền. Khi đó sẽ không còn “lĩnh vực cá nhân”; và tự do cá nhân cũng như nguyên tắc pháp quyền sẽ bị xóa bỏ.

Lòng khoan dung cần phải được xây dựng một cách có ý thức. Nó tồn tại vì một lý do căn bản: tôn trọng người khác như những chủ thể đạo đức, cùng với việc tôn trọng tự do của họ, chính là nền tảng cho hợp tác hòa bình trong xã hội tự do. Thế nhưng, các chính trị gia và quan chức của chúng ta lại thường không ý thức được lúc nào họ đang vượt qua ranh giới tối quan trọng này. Người dân, khi đối mặt với các vấn đề xã hội, cũng hay kêu gọi chính phủ “phải hành động”, ngay cả khi sự can thiệp ấy trên thực tế là xâm phạm quyền tự do cá nhân mà không thể nào biện minh được. Và chúng ta cũng thường quá dễ dàng ép buộc người khác “vì lợi ích của họ” – trong khi thực chất chỉ là buộc họ phải khuất phục trước những giá trị và định kiến của chính chúng ta.

Nhà triết học và nhân học người Anh Herbert Spencer (1820–1903) từng viết: “Dù chúng ta không còn cho mình cái quyền ép buộc con người vì lợi ích tinh thần của họ, thì ta vẫn cho rằng mình có nghĩa vụ ép buộc họ vì lợi ích vật chất của họ – mà không nhận ra rằng cả hai đều vô ích và đều không chính đáng như nhau.” Đó chỉ là một trong nhiều lý do khiến những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển luôn kêu gọi giới hạn quyền lực của chính phủ.

Nguồn: Eamonn Butler (2015). Classical Liberalism – A Primer. The Institute of Economic Affairs. Phạm Nguyên Trường dịch. 

Dịch giả:
Phạm Nguyên Trường