Báo cáo phát triển nền kinh tế thị trường Việt Nam 2014
DẪN NHẬP
Cơ chế thị trường đã chứng minh cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn rằng nó là phương thức phân bổ nguồn lực hiệu quả nhất của một nền kinh tế mà loài người có được cho tới nay; nó giúp nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết nạn nghèo đói và gia tăng thịnh vượng cho người dân. Điều này cũng đã được chứng thực ở Việt Nam. Nỗ lực cải cách nền kinh tế theo hướng thị trường từ năm 1986 tới nay đã giúp Việt Nam từ một trong những nước nghèo nhất thế giới gần 30 năm trước trở thành một nước có USD thu nhập trung bình, với mức GDP bình quân đầu người đạt xấp xỉ 1.900 USD và có tỷ lệ hộ nghèo cả nước ước khoảng 7,6–7,8% vào cuối năm 2013.
Tuy nhiên, những thành tựu kinh tế và xã hội mà Việt Nam đạt được trong giai đoạn vừa qua có dấu hiệu không thực sự bền vững. Kể từ năm 2008 đến nay, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chỉ loanh quanh ở mức 5–6%. Điều đáng nói là mức tăng trưởng thấp này lại diễn ra ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2007. Không nghi ngờ gì, nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng tiêu cực nhất định từ cuộc đại suy giảm kinh tế toàn cầu năm 2008–2009. Tuy nhiên, mức tăng trưởng kinh tế thấp diễn ra trong nhiều năm đặt ra câu hỏi liệu đó là do tác động tiêu cực của việc Việt Nam mở cửa nền kinh tế quá nhanh hay do các cải cách theo hướng nền KTTT tại Việt Nam vẫn còn chưa đủ.
Việc đánh giá toàn diện quá trình và mức độ phát triển của nền KTTT Việt Nam là cần thiết để chúng ta xác định được chính xác đâu là những nguyên nhân khiến cho nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng chậm trong thời gian vừa qua, từ đó đề xuất các giải pháp để giúp Việt Nam có được một nền KTTT hoàn thiện và hiệu quả hơn.
Để đạt được mục tiêu này, chương này trước hết sẽ tập trung xác định các đặc trưng của nền KTTT và xây dựng các tiêu chí đánh giá mức độ phát triển nền KTTT. Dựa vào các khung khổ lý thuyết đó, thông qua phương pháp so sánh quá trình phát triển trong từng giai đoạn và so với các nước khác, chương này sẽ phân tích các nhân tố kinh tế, định chế và quá trình phát triển và đánh giá mức độ thành công trong nỗ lực phát triển nền KTTT tại Việt Nam. Phần cuối của chương này sẽ chỉ ra những điểm còn tồn tại và đưa ra một số khuyến nghị chính sách trong thời gian tới.
KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH
Những phân tích và đánh giá tổng quát của chúng tôi về quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam cho thấy Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể về các yếu tố KTTT từ năm 2000 trở lại đây, đặc biệt là trong những năm Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO. Tuy nhiên, kể từ năm 2008, tốc độ cải thiện đã bị chững lại. Nhiều tiêu chí phát triển KTTT có dấu hiệu bị suy giảm và còn thấp hơn nhiều so với các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là các tiêu chí liên quan đến hệ thống pháp trị và quản trị nhà nước. Thêm vào đó, Nhà nước vẫn còn nhiều chính sách can thiệp vào các thị trường đất đai, lao động, vốn, TMQT và trực tiếp tham gia vào hoạt động kinh tế, làm méo mó phân bổ nguồn lực của xã hội.
Vì vậy, để phát triển và hoàn thiện kinh tế thị trường ở Việt Nam trong những năm tới, việc quan trọng nhất của Việt Nam là nâng cao tính độc lập của tư pháp, không để các lợi ích nhóm can thiệp vào quá trình xét xử tranh chấp kinh tế, tăng cường tính dân chủ, nâng cao tiếng nói của doanh nghiệp, người dân trong các hoạt động xây dựng luật của Quốc hội. Ngoài ra, Chính phủ cần bảo vệ tốt quyền tài sản hợp pháp của người dân và doanh nghiệp, ngoài các tài sản hữu hình như cơ sở vật chất, tài sản tư, còn cần tập trung bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Thêm vào đó, Nhà nước cần có chính sách quản lý đất đai một cách hợp lý, tạo nên một thị trường đất đai minh bạch.
Thứ hai, Chính phủ cần tăng cường kỷ luật ngân sách, thu hẹp bộ máy hành chính nhằm cắt giảm chi thường xuyên. Chính phủ cũng cần chuyển một phần các hoạt động đầu tư công sang cho khu vực tư, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân tham gia đầu tư vào các hoạt động công ích một cách bình đẳng. Ngoài ra, do gánh nặng thuế của Việt Nam vẫn ở mức cao, có thể làm giảm động lực đầu tư của doanh nghiệp, vì vậy, các mức thuế cũng cần có lộ trình giảm, đảm bảo cân bằng ngân sách kèm theo đó là nâng cao hệ thống thuế, giảm thất thoát thuế.
Thứ ba, NHNN cần nâng cao tính độc lập của mình trong việc điều hành CSTT. NHNN cần kiểm soát cung tiền hiệu quả, phù hợp với mức tăng trưởng GDP, qua đó sẽ kiểm soát được tỷ lệ lạm phát trong vùng mục tiêu. Bên cạnh đó, trong bối cảnh TMQT và dòng vốn vào ra Việt Nam tương đối tự do, NHNN cần có lộ trình thả nổi tỷ giá để đảm bảo ổn định vĩ mô trong dài hạn.
Thứ tư, trong lộ trình cam kết với WTO, ngoài các hàng rào thuế quan, Việt Nam cần chủ động cắt bỏ nhiều hàng rào phi thuế quan, cải cách các thủ tục hải quan để giảm các thủ tục hành chính liên quan đến xuất nhập khẩu, tăng cường ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương.
Thứ năm, Việt Nam cần tiếp tục giảm bớt các quy định về thuế lao động, đặc biệt trong việc sa thải công nhân, gia tăng quyền đàm phán về lương cho doanh nghiệp và người lao động.
Tham khảo toàn bộ tại đây: https://thitruongtudo.vn/chi-tiet/bao-cao-phat-trien-nen-kinh-te-thi-truong-viet-nam-2014-pdf.html
