![[Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại - Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói] - Chương XV: Tìm hiểu sự thịnh vượng và đói nghèo (Phần 2)](http://thitruongtudo.vn/upload/01_bai_viet/k240013_(1).jpg)
[Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại - Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói] - Chương XV: Tìm hiểu sự thịnh vượng và đói nghèo (Phần 2)
SỨC HÚT MÃNH LIỆT CỦA SỰ TĂNG TRƯỞNG ĐỘC ĐOÁN
Đại Quốc Phương sớm nhận ra sự bùng nổ đô thị sắp tới của Trung Quốc ngay từ đầu. Vào những năm 1990, xa lộ, trung tâm thương mại, khu dân cư và những tòa nhà chọc trời bắt đầu xuất hiện khắp nơi tại Trung Quốc, và ông Phương cho rằng sự tăng trưởng này sẽ tăng tốc trong thập kỷ tiếp theo. Ông lý luận rằng công ty Sắt Thép Jinagsu Tieben của mình có thể thâu tóm một thị trường lớn với vai trò một nhà sản xuất giá rẻ, đặc biệt khi so với các nhà máy thép quốc doanh hoạt động phi hiệu quả. Ông bắt đầu lên kế hoạch xây dựng một công ty thép khổng lồ thực thụ, và bắt đầu thực hiện vào năm 2003 với sự hỗ trợ của các lãnh đạo đảng địa phương ở Thường Châu. Tuy nhiên, đến tháng 3/2004, dự án của ông bị dừng lại theo mệnh lệnh của Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Bắc Kinh, và ông bị bắt với những lý do không bao giờ được tuyên bố rõ ràng. Chính quyền có lẽ đã nghĩ rằng họ sẽ tìm được những bằng chứng buộc tội nào đó trong hồ sơ của ông Phương. Trong biến cố đó, ông bị cầm tù và chịu án treo năm năm, rồi bị cáo buộc với một tội danh nhẹ vào năm 2009. Cái tội thật sự của ông, như mọi người ngầm hiểu, là đã khởi động một dự án lớn có thể cạnh tranh với các công ty quốc doanh và đã tiến hành mà không được các viên chức cấp cao trong Đảng Cộng sản Trung Quốc thông qua. Hiển nhiên đây là bài học mà những người khác có thể học hỏi từ trường hợp của Đại Quốc Phương.
Phản ứng của Bắc Kinh đối với những doanh nhân như ông Phương không phải là chuyện lạ. Trần Vân, một trong những đồng chí thân cận nhất của Đặng Tiểu Bình và có lẽ là người đứng sau những cuộc cải cách thị trường đầu tiên, đã đúc kết quan điểm của hầu hết các cán bộ đảng bằng phép so sánh nền kinh tế với một “con chim trong lồng”: Nền kinh tế Trung Quốc là con chim; chiếc lồng, tức là sự quản lý của đảng, phải được nới rộng để chim khỏe mạnh và năng động hơn, nhưng không được mở cửa lồng hay tháo bỏ nó, vì như vậy chim sẽ bay mất. Giang Trạch Dân, ngay sau khi trở thành Tổng Bí thư, vị trí quyền lực nhất ở Trung Quốc vào năm 1989, đã đi xa hơn nữa và đúc kết sự hoài nghi của đảng đối với các nghiệp chủ thông qua mô tả họ là “những kẻ mua bán tự làm chủ, và là những kẻ lừa bịp, chuyên gian lận, biển thủ, hối lộ và trốn thuế”. Trong suốt những năm 1990, ngay cả khi nguồn vốn đầu tư nước ngoài đang đổ vào Trung Quốc và các doanh nghiệp quốc doanh cũng được khích lệ mở rộng đầu tư, các nghiệp chủ tư nhân luôn được chào đón với sự nghi ngại, và nhiều nghiệp chủ đã bị sung công tài sản hay thậm chí bị bỏ tù. Quan điểm của Giang Trạch Dân về các nghiệp chủ tư nhân tuy đã giảm tương đối nhưng vẫn còn rất phổ biến ở Trung Quốc. Theo lời của một nhà kinh tế học Trung Quốc: “Các doanh nghiệp quốc doanh lớn có thể tham gia vào những dự án khổng lồ. Nhưng khi đến lượt những công ty tư nhân muốn tham gia, nhất là khi họ cạnh tranh với nhà nước, rắc rối từ khắp nơi sẽ đổ về”.
Mặc dù nhiều công ty tư nhân đang hoạt động có lãi ở Trung Quốc, song nhiều yếu tố trong nền kinh tế vẫn đang chịu sự quản lý và bảo hộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Phóng viên Richard McGrogor cho hay trên bàn của mỗi người đứng đầu một công ty quốc doanh lớn tại Trung Quốc đều có một chiếc điện thoại màu đỏ. Mỗi khi chiếc điện thoại này reo, tức là đảng đang chỉ đạo công ty cần phải làm gì, đầu tư ở đâu và với mục tiêu nào. Các công ty khổng lồ này vẫn chịu sự chỉ đạo của đảng, thể hiện rõ nhất ở việc đảng có thể quyết định điều chuyển nhân sự điều hành cao cấp, sa thải hay thăng chức họ mà không cần giải thích.
Những mẩu chuyện này tất nhiên không phủ nhận rằng Trung Quốc đã có những bước tiến mạnh dạn hướng tới các thể chế dung hợp, đặt nền tảng cho tỷ lệ tăng trưởng vượt bậc trong 30 năm qua. Phần lớn các nghiệp chủ đã có sự đảm bảo chắc chắn nào đó, ít ra là vì họ tranh thủ sự hậu thuẫn của các cán bộ địa phương và giới quyền thế trong đảng ở Bắc Kinh. Phần lớn các doanh nghiệp quốc doanh đều mưu cầu lợi nhuận và cạnh tranh trên các thị trường quốc tế. Trung Quốc đã “thay da đổi thịt” kể từ thời Mao Trạch Đông. Như chúng ta đã thấy trong chương trước, sở dĩ Trung Quốc có thể tăng trưởng trước hết là vì dưới thời Đặng Tiểu Bình, đất nước đã có những cuộc cải cách triệt để từ bỏ các thể chế kinh tế chiếm đoạt nhất và hướng tới các thể chế kinh tế dung hợp. Trung Quốc tiếp tục tăng trưởng vì các thể chế kinh tế đã bước vào một lộ trình để trở nên ngày càng có tính dung hợp nhiều hơn, cho dù với một nhịp độ chậm chạp. Trung Quốc cũng được hưởng lợi từ một lực lượng lao động dồi dào, giá rẻ, cũng như sự tiếp cận với các thị trường, vốn và công nghệ nước ngoài.
Mặc dù các thể chế kinh tế Trung Quốc ngày nay đã có tính dung hợp hơn nhiều so với 30 năm trước, kinh nghiệm của Trung Quốc vẫn là một ví dụ điển hình về sự tăng trưởng trong các thể chế chính trị chiếm đoạt. Tuy gần đây đã chú trọng vào phát minh đổi mới và khoa học công nghệ, nhưng sự tăng trưởng của Trung Quốc dựa trên cơ sở tiếp thu những công nghệ hiện có và đầu tư nhanh chóng, chứ không phải dựa trên sự phá hủy sáng tạo. Một khía cạnh quan trọng của vấn đề này là quyền sở hữu không được đảm bảo hoàn toàn. Thỉnh thoảng vẫn có những trường hợp như Đại Quốc Phương, một số nghiệp chủ bị tịch thu và sung công tài sản. Sự lưu chuyển lao động bị quản lý chặt chẽ, và quyền sở hữu cơ bản nhất của con người, quyền tự do bán sức lao động, vẫn không được tôn trọng. Bằng chứng cho thấy các thể chế kinh tế ở đây vẫn chưa hoàn toàn có tính dung hợp thể hiện qua việc có rất ít doanh nhân “dám” tham gia vào một hoạt động nào đó mà không có sự hậu thuẫn của cán bộ đảng ở địa phương, hay quan trọng hơn là của Bắc Kinh. Mối liên hệ giữa doanh nghiệp và đảng mang lại lợi nhuận béo bở cho cả hai. Những doanh nghiệp được đảng nâng đỡ nhận được các hợp đồng với những điều khoản thuận lợi, có thể di dời dân chúng để thu hồi đất đai của họ, và có thể vi phạm luật pháp mà không sợ bị khép tội. Những ai cản trở đường lối kế hoạch kinh doanh này sẽ bị vùi dập, thậm chí có thể bị bỏ tù hay bị giết.
Sức mạnh của Đảng Cộng sản Trung Quốc và các thể chế chiếm đoạt ở đây nhắc ta nhớ lại nhiều điểm tương đồng giữa sự tăng trưởng của Xô viết vào những năm 1950, 1960 và sự tăng trưởng của Trung Quốc ngày nay, dẫu rằng vẫn có những khác biệt đáng chú ý. Liên bang Xô viết từng tăng trưởng trong các thể chế kinh tế chiếm đoạt và các thể chế chính trị chiếm đoạt vì họ đã dùng vũ lực để tập trung nguồn lực vào hoạt động công nghiệp trong một cơ cấu mệnh lệnh tập trung, đặc biệt là chạy đua vũ trang và công nghiệp nặng. Sự tăng trưởng này có thể xảy ra một phần là do họ vẫn đang có một khoảng cách công nghệ so với thế giới để có thể đuổi kịp. Nói cách khác, sự tăng trưởng trong các thể chế chiếm đoạt diễn ra dễ dàng hơn khi không cần có sự phá hủy sáng tạo. Các thể chế kinh tế Trung Quốc chắc chắn là có tính dung hợp nhiều hơn so với Liên bang Xô viết, nhưng các thể chế chính trị Trung Quốc vẫn mang tính chiếm đoạt. Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm giữ toàn bộ quyền lực ở đất nước này và kiểm soát toàn bộ bộ máy nhà nước, các lực lượng vũ trang, phương tiện truyền thông và phần lớn nền kinh tế. Người dân Trung Quốc có rất ít tự do chính trị và rất ít khi tham gia vào quá trình chính trị.
Nhiều người lâu nay vẫn tin rằng sự tăng trưởng ở Trung Quốc sẽ mang lại dân chủ và chế độ đa nguyên. Sự kiện Thiên An Môn năm 1989 từng mang đến một cảm giác thực tế là sẽ dẫn đến mở cửa nhiều hơn và ngay cả sự sụp đổ chế độ. Thế nhưng, xe tăng đã được điều động đến tấn công những người biểu tình, và thay vì là một cuộc cách mạng trong hòa bình, giờ đây sử sách gọi đó là “cuộc thảm sát ở Quảng trường Thiên An Môn”. Trên nhiều phương diện, các thể chế chính trị ở Trung Quốc trở nên có tính chiếm đoạt nhiều hơn sau sự kiện này; những nhà cải cách như Triệu Tử Dương, Tổng Bí thư Đảng lúc bấy giờ, người từng ủng hộ các sinh viên ở Quảng trường Thiên An Môn, đã bị khai trừ, và đảng đã kiểm soát chặt chẽ các quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí. Triệu Tử Dương bị giam lỏng tại gia trong hơn 15 năm, và toàn bộ hồ sơ công luận của ông dần dần bị xóa bỏ, để ông thậm chí không thể trở thành một hình tượng cho những người ủng hộ thay đổi chính trị.
Ngày nay, sự kiểm soát đối với các phương tiện thông tin đại chúng, bao gồm mạng internet, lên đến mức nghiêm ngặt chưa từng thấy. Sự kiểm soát này chủ yếu thông qua hiện tượng tự kiểm duyệt của chính những người công bố thông tin trên internet: Mọi người biết rằng họ không được nhắc tới Triệu Tử Dương hay Lưu Hiểu Ba, nhà phê bình chính phủ đã đấu tranh cho dân chủ, người hiện nay vẫn mòn mỏi trong nhà tù mặc dù đã được trao giải Nobel Hòa bình. Ngoài việc tự kiểm duyệt, việc kiểm soát internet còn được hỗ trợ bởi một hệ thống kiểm soát có khả năng theo dõi các cuộc đối thoại và truyền thông, đóng cửa các trang web và tòa báo, hay thậm chí chặn bất cứ một tin tức riêng lẻ nào trên internet. Tất cả sự kiểm soát này đã được biết đến công khai khi tin tức về hành vi tham nhũng của con trai Tổng Bí thư Hồ cẩm Đào cầm quyền từ năm 2002, bị tiết lộ vào năm 2009. Hệ thống kiểm soát của đảng lập tức hành động và không những đã chặn được các nguồn tin từ Trung Quốc đăng tải vụ việc mà còn xoay sở để chặn tin một cách chọn lọc trên các trang web của tờ New York Times và Financial Times.
Do sự kiểm soát của đảng đối với các thể chế kinh tế, cho nên mức độ phá hủy sáng tạo bị hạn chế nghiêm trọng, và tình hình sẽ tiếp tục như vậy cho đến khi người ta cải cách triệt để các thể chế chính trị hiện tại. Tương tự như Liên Xô, sự tăng trưởng của Trung Quốc trong các thể chế chính trị chiếm đoạt trở nên thuận lợi hơn là do đất nước vẫn còn phải thu hẹp khoảng cách công nghệ so với các nước phát triển. Thu nhập bình quân đầu người ở Trung Quốc vẫn chỉ bằng một phần nhỏ so với Mỹ và Tây Âu. Tất nhiên, sự tăng trưởng của Trung Quốc đa dạng hơn nhiều so với sự tăng trưởng của Liên Xô, vì nó không chỉ dựa vào chạy đua vũ trang và công nghiệp nặng, và các nghiệp chủ Trung Quốc thể hiện nhiều tài năng khéo léo. Dầu sao đi nữa, sự tăng trưởng này sẽ trở nên hụt hơi, trừ khi các thể chế chính trị chiếm đoạt nhường bước cho các thể chế dung hợp. Chừng nào mà các thể chế chính trị vẫn còn mang tính chiếm đoạt, thì sự tăng trưởng vẫn còn bị kìm hãm, hệt như các trường hợp tương tự khác.
Trải nghiệm của Trung Quốc làm phát sinh một vài câu hỏi thú vị về sự tăng trưởng tương lai của Trung Quốc và quan trọng hơn là về tính đáng mong đợi và khả năng tồn tại lâu dài của sự tăng trưởng độc đoán. Sự tăng trưởng độc đoán này đã trở thành một phương án chọn lựa khác, thay thế cho “đồng thuận Washington” vốn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của thị trường và tự do hóa thương mại cũng như các hình thức cải cách thể chế nhất định để kích hoạt tăng trưởng kinh tế ở những vùng kém phát triển trên thế giới. Tuy rằng phần nào sức hấp dẫn của sự tăng trưởng độc đoán thể hiện qua phản ứng đáp trả đối với “Đồng thuận Washington”, thế nhưng có lẽ sức hút mạnh mẽ hơn của nó - hiển nhiên là đối với những kẻ thống trị theo đuổi các thể chế chiếm đoạt - là việc nó giúp họ có toàn quyền duy trì và thậm chí củng cố quyền lực và hợp pháp hóa sự chiếm đoạt của mình.
Như lý thuyết của chúng tôi nhấn mạnh, sự tăng trưởng trong các thể chế chiếm đoạt vẫn có thể xảy ra, đặc biệt là đối với những xã hội đã ít nhiều trải qua tình trạng tập trung hóa nhà nước, và thậm chí có rất nhiều khả năng xảy ra ở nhiều quốc gia, từ Campuchia và Việt Nam cho đến Burundi, Ethiopia và Rwanda. Nhưng lý thuyết của chúng tôi cũng hàm ý rằng mọi ví dụ điển hình về sự tăng trưởng trong các thể chế chính trị chiếm đoạt đều không bền vững.
Đối với trường hợp Trung Quốc, quá trình tăng trưởng dựa trên việc đuổi kịp thế giới tiên tiến, nhập khẩu công nghệ nước ngoài, và xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo cấp thấp có thể sẽ còn tiếp tục trong một thời gian. Tuy nhiên, sự tăng trưởng của Trung Quốc có thể sẽ đi đến hồi kết, cụ thể là khi Trung Quốc đạt đến mức sống của một đất nước có thu nhập trung bình. Xem ra tình huống có nhiều khả năng xảy ra nhất là, bộ máy chính trị và giới quyền thế kinh tế với quyền lực ngày càng tăng ở Trung Quốc sẽ xoay sở để duy trì sự thâu tóm quyền lực chặt chẽ của mình trong vài thập kỷ tới. Trong trường hợp đó, lịch sử và giả thuyết của chúng tôi cho thấy sự tăng trưởng dựa trên phá hủy sáng tạo và phát minh đổi mới thực thụ sẽ không xuất hiện, và tỷ lệ tăng trưởng chóng mặt hiện tại của Trung Quốc sẽ dần dần tan biến. Nhưng viễn cảnh này không hề được định trước và Trung Quốc vẫn có thể tránh được nếu đất nước chuyển đổi sang các thể chế chính trị dung hợp trước khi sự tăng trưởng trong các thể chế chiếm đoạt hiện tại chạm phải giới hạn của nó. Tuy vậy, như chúng ta sẽ thấy trong phần sau, gần như không có lý do gì để hy vọng rằng sẽ có một sự chuyển đổi sang thể chế chính trị dung hợp hơn hay hy vọng rằng việc đó sẽ tự động diễn ra một cách êm thấm.
Ngay trong nội bộ đảng cũng đã xuất hiện nhiều tiếng nói e ngại về những hiểm nguy trên con đường trước mắt và gợi ý về sự cần thiết phải có cuộc cải cách chính trị (mà theo ngôn ngữ của chúng tôi là sự chuyển đổi sang các thể chế chính trị dung hợp). Vị thủ tướng đầy quyền lực ôn Gia Bảo gần đây đã cảnh báo rằng nếu không có cải cách chính trị, tăng trưởng kinh tế sẽ bị kìm hãm. Chúng tôi cho rằng những phân tích của ông là một điềm báo trước, mặc dù vẫn có vài người nghi ngờ lòng chân thành của ông. Tuy nhiên, nhiều người ở phương Tây không đồng ý với những phát biểu của ông. Đối với họ, Trung Quốc mở một ra một hướng đi mới tiến tới sự tăng trưởng kinh tế bền vững dưới chế độ độc tài hơn là trong các thể chế kinh tế và chính trị dung hợp. Nhưng họ đã sai. Chúng ta đã thấy gốc rễ căn bản nhất của thành công mà Trung Quốc đạt được: Sự thay đổi triệt để các thể chế kinh tế từ các thể chế cứng nhắc sang những thể chế có khả năng tạo ra động cơ khuyến khích cho sự gia tăng năng suất và thương mại. Nhìn từ góc độ này, thành công của Trung Quốc về cơ bản không có gì khác so với những nước đã xoay sở để chuyển từ thể chế kinh tế chiếm đoạt sang thể chế kinh tế dung hợp, dù diễn ra dưới thể chế chính trị chiếm đoạt, như trong trường hợp Trung Quốc. Vì thế, Trung Quốc đạt được tăng trưởng kinh tế không phải nhờ vào các thể chế chính trị chiếm đoạt, mà đúng ra là đã tăng trưởng bất chấp những thể chế đó: kinh nghiệm tăng trưởng thành công của Trung Quốc trong ba thập niên vừa qua là do sự thay đổi triệt để, từ bỏ các thể chế kinh tế chiếm đoạt và chuyển sang các thể chế kinh tế dung hợp hơn, một quá trình khó khăn do sự hiện diện của thể chế chính trị chiếm đoạt và độc đoán cao độ.
CÓ NHỮNG NGƯỜI ỦNG HỘ tăng trưởng độc đoán thông qua công nhận bản chất không đáng mong đợi của kiểu tăng trưởng này, nhưng cho rằng đây chỉ là giai đoạn quá độ. Ý tưởng này đưa chúng ta quay lại với những lý thuyết kinh điển trong chính trị - xã hội học: lý thuyết hiện đại hóa của Seymour Martin Lipset. Lý thuyết hiện đại hóa cho rằng trong quá trình tăng trưởng, mọi xã hội đều tiến tới một trạng thái hiện đại, phát triển và văn minh hơn, đặc biệt là tiến tới một nền dân chủ. Những người ủng hộ lý thuyết hiện đại hóa cũng cho rằng, tương tự như sự hình thành nền dân chủ, các thể chế dung hợp sẽ xuất hiện như một sản phẩm phụ của quá trình tăng trưởng. Hơn nữa, mặc dù dân chủ không đồng nhất với các thể chế chính trị dung hợp, nhưng việc tuyển cử thường xuyên và sự cạnh tranh chính trị tự do vẫn có thể dẫn đến sự phát triển các thể chế chính trị dung hợp. Những phiên bản khác nhau của lý thuyết hiện đại hóa cũng cho rằng một lực lượng lao động có trình độ cao sẽ tự động sinh ra một nền dân chủ và những thể chế tốt hơn. Trong một phiên bản của lý thuyết này nhưng phần nào có tính chống chủ nghĩa hiện đại, cây bút Thomas Friedman của tờ New York Times đã lập luận sâu xa hơn rằng khi một quốc gia đã có đủ các nhà hàng thức ăn nhanh McDonald, thì tất yếu sẽ xuất hiện nền dân chủ và các thể chế dung hợp. Tất cả những điều này đã vẽ nên một bức tranh đầy lạc quan. Hơn 60 năm qua, hầu hết các nước, ngay cả những nước có các thể chế chiếm đoạt, đều đạt được ít nhiều tăng trưởng, và hầu hết đều trải qua sự gia tăng trình độ học vấn của lực lượng lao động. Như vậy, khi thu nhập và trình độ dân trí tiếp tục gia tăng, thì bằng cách này hay cách khác, tất cả những điều tốt đẹp như dân chủ, nhân quyền, tự do ngôn luận và quyền sở hữu đảm bảo cũng sẽ tự động xuất hiện.
Lý thuyết hiện đại hóa được nhiều người ủng hộ, cả trong và ngoài giới học thuật. Chẳng hạn như thái độ của Mỹ đối với Trung Quốc gần đây đã được định hình bởi lý thuyết này. Tổng thống Mỹ George H.W Bush từng tổng kết nội dung chính sách của Mỹ đối với nền dân chủ Trung Quốc là: “Hãy tự do giao thương với Trung Quốc và rồi thời gian sẽ đứng về phía chúng ta”. Ý tưởng ở đây là: theo dự đoán của lý thuyết hiện đại hóa, khi Trung Quốc tự do giao thương với phương Tây, đất nước sẽ tăng trưởng, và sự tăng trưởng đó sẽ dẫn đến nền dân chủ cùng với những thể chế tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, sự gia tăng nhanh chóng hoạt động thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc từ giữa những năm 1980 đã không giúp ích gì nhiều cho nền dân chủ của Trung Quốc, và thậm chí sự hội nhập gần gũi hơn có thể xảy ra trong thập niên tới xem ra cũng chỉ mang lại kết quả như vậy mà thôi.
Tương tự, thái độ của nhiều người về tương lai của xã hội Iraq và nền dân chủ nơi đây sau sự xâm nhập của Mỹ cũng trở nên lạc quan hơn nhờ vào thuyết hiện đại hóa. Dù nền kinh tế dưới thời Saddam Hussein chẳng khác nào một thảm họa, đến năm 2002 Iraq không còn nghèo như nhiều nước ở khu vực hạ Sahara châu Phi, trình độ dân trí của người dân Iraq cũng tương đối cao, vì thế người ta tưởng rằng nơi đây sẽ là một mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển dân chủ và các quyền tự do dân sự, và có lẽ cả chế độ đa nguyên. Để rồi khi rối loạn và nội chiến bao trùm lên xã hội Iraq, niềm hy vọng này nhanh chóng tan biến.
Lý thuyết hiện đại hóa vừa sai lầm vừa không hữu ích để ta suy nghĩ về cách thức đối phó với vấn đề thể chế chiếm đoạt ở những quốc gia thất bại. Bằng chứng lớn nhất ủng hộ cho lý thuyết hiện đại hóa là hiện tượng những quốc gia giàu có là những nước có chế độ dân chủ, tôn trọng nhân quyền và dân quyền, có các thị trường vận hành trôi chảy và nói chung có các thể chế kinh tế dung hợp. Tuy nhiên, nếu gắn kết hai việc này và dùng nó làm bằng chứng cho thuyết hiện đại hóa thì đã bỏ qua ảnh hưởng to lớn của các thể chế kinh tế và chính trị dung hợp đối với tăng trưởng kinh tế. Như chúng tôi lập luận xuyên suốt quyển sách này, chính những quốc gia có các thể chế dung hợp mới có thể phát triển suốt 300 năm qua và ngày nay trở nên tương đối giàu có. Nếu nhìn sự việc dưới một góc độ khác, chúng ta sẽ thấy rõ ràng là, trong khi những quốc gia đã và đang xây dựng các thể chế kinh tế và chính trị dung hợp suốt mấy thế kỷ qua đã đạt được sự tăng trưởng kinh tế bền vững, thì những nhà nước chuyên chế với tốc độ tăng trưởng còn nhanh hơn thế trong 60 đến 100 năm qua vẫn không trở nên dân chủ hơn, trái với những gì lý thuyết hiện đại hóa của Lipset dự đoán. Và điều này chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Tăng trưởng trong các thể chế chiếm đoạt sở dĩ đạt được là do nó không nhất thiết hay không tự động đưa đến sự diệt vong của chính các thể chế chiếm đoạt này. Thật vậy, tăng trưởng đã xảy ra là do những người đang kiểm soát các thể chế chiếm đoạt xem tăng trưởng kinh tế không phải là mối đe dọa mà là sự củng cố chế độ của họ, như những gì Đảng Cộng sản Trung Quốc đã làm từ những năm 1980. Cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi sự tăng trưởng đạt được nhờ vào sự gia tăng giá trị tài nguyên thiên nhiên như ở Gabon, Nga, Ảrập Xê-Út và Venezuela không thể dẫn đến sự chuyển đổi căn bản từ các chế độ độc tài này chuyển sang các thể chế dung hợp.
Lý thuyết hiện đại hóa còn bị phủ nhận bởi nhiều chứng cứ lịch sử. Nhiều quốc gia tương đối thịnh vượng đã khuất phục trước chế độ độc tài và các thể chế chiếm đoạt. Cả Đức và Nhật đều từng là những đất nước giàu có nhất và có nền công nghiệp hiện đại nhất thế giới vào nửa đầu thế kỷ 20, và người dân có trình độ văn hóa tương đối cao. Tuy nhiên, điều này không hề ngăn cản sự xuất hiện của Đức Quốc Xã hay một chế độ độc tài quân sự dốc sức bành trướng lãnh thổ thông qua chiến tranh ở Nhật - làm cho cả các thể chế kinh tế lẫn chính trị đều biến đổi hoàn toàn thành các thể chế chiếm đoạt. Argentina cũng từng là một trong những quốc gia giàu nhất thế giới vào thế kỷ 19, chẳng kém gì nước Anh hay thậm chí còn giàu hơn, bởi vì nước này được hưởng lợi từ sự bùng phát tài nguyên thiên nhiên thế giới. Dân chúng nước này cũng có trình độ học vấn cao nhất châu Mỹ La-tinh. Thế nhưng nền dân chủ và chế độ đa nguyên ở đây không hề khá hơn so với những nơi khác ở châu Mỹ La-tinh. Hết cuộc đảo chính này đến cuộc đảo chính khác diễn ra, và như ta đã thấy trong chương 11, ngay cả những nhà lãnh đạo được bầu cử một cách dân chủ cũng trở thành những kẻ độc tài tàn bạo. Thậm chí gần đây hơn, cũng gần như không có chút tiến bộ nào hướng tới các thể chế kinh tế dung hợp, và như ta đã thảo luận trong chương 13, chính quyền Argentina vào thế kỷ 21 này vẫn còn có thể tịch biên tài sản của dân chúng mà không bị trừng phạt.
Tất cả những điều này làm sáng tỏ một số vấn đề quan trọng. Thứ nhất, sự tăng trưởng trong các thể chế chính trị chiếm đoạt và độc đoán ở Trung Quốc, tuy có thể sẽ tiếp tục trong một khoảng thời gian nữa, nhưng không thể nào kéo theo sự tăng trưởng bền vững, được nâng đỡ bằng các thể chế kinh tế dung hợp thực thụ và sự phá hủy sáng tạo. Thứ hai, trái với lập luận của lý thuyết hiện đại hóa, chúng ta không nên tin rằng sự tăng trưởng độc đoán sẽ mang lại nền dân chủ hay các thể chế chính trị dung hợp. Trung Quốc, Nga và một vài nhà nước độc tài khác hiện nay đang tăng trưởng nhưng có thể sẽ vấp phải giới hạn của sự tăng trưởng chiếm đoạt trước khi họ kịp chuyển đổi các thể chế chính trị theo chiều hướng dung hợp hơn - hay nói đúng ra là trước khi giới quyền thế ở các nước này mong muốn thay đổi hay sự chống đối quyết liệt buộc họ phải thay đổi. Thứ ba, sự tăng trưởng độc đoán chẳng những không đáng mong đợi mà còn không thể tồn tại trong dài hạn, và vì thế không nên nhận được sự ủng hộ từ cộng đồng quốc tế như một tấm gương điển hình cho các quốc gia ở Mỹ La-tinh, châu Á và vùng hạ Sahara châu Phi noi theo, ngay cả khi đây là một con đường mà nhiều quốc gia sẽ chọn chỉ vì đôi khi nó nhất quán với quyền lợi của giới quyền thế kinh tế và chính trị cầm quyền.
Nguồn: Daron Acemoğlu, James A. Robinson (2012). Vì Sao Các Quốc Gia Thất Bại. Trần Thị Kim Chi dịch, Vũ Thành Tự Anh hiệu đính. NXB Trẻ. Nguyên tác: Why Nations Fail (2012)