[Điểm sách] Kinh tế học cấm đoán

[Điểm sách] Kinh tế học cấm đoán

Các bạn đang cầm trên tay một cuốn sách có thể gây ra những chấn thương đáng kể về nhận thức, nếu bạn chưa chuẩn bị tinh thần chu đáo cho việc đọc nó. Vì lý do ấy, chúng tôi phải thận trọng ghi ở đầu sách, đây là sách “tham khảo đặc biệt cho chuyên ngành kinh tế học”. Điều ấy không có nghĩa là bạn nhất định phải hiểu biết về kinh tế học mới đọc được cuốn sách này. Ý của chúng tôi là, tác phẩm này nên dành cho những độc giả có thói quen suy xét vấn đề một cách cẩn trọng, đa chiều, cởi mở, và qua đó, nhìn nhận các vấn đề dưới con mắt của một trí tuệ tự do – cái mà những người trong ngành kinh tế luôn tự nhủ phải giữ gìn.

Cuốn sách này sẽ nói với bạn rằng, về cơ bản những cấm đoán, ngăn cản trong xã hội, mà bạn vẫn cho là thật hợp lý về đạo đức, bằng luật pháp hay các phương tiện gần như luật pháp, hầu hết đều không có tác dụng, nếu không muốn nói là phản tác dụng. Tức là chúng thường tạo thêm những điều tồi tệ hơn cho nhiều thành viên trong xã hội, hoặc làm phát sinh thêm những vấn nạn mới như tội ác khốc liệt hơn, dung dưỡng tham nhũng, đặc quyền và hình thành thêm các băng đảng.

Tác giả của cuốn sách này, Giáo sư Mark Thornton, là một nhà kinh tế học Trường phái Áo, học trò của Murray Rothbard, một trong những người Mỹ đầu tiên tiếp nối dòng “truyền thừa” của trường phái tự do Áo từ nhà kinh tế vĩ đại Ludwig von Mises.

Cuốn sách này bắt đầu bằng việc phân tích kỹ Đạo luật Cấm rượu ở Mỹ vào đầu thế kỷ XX, chứng minh rằng những cấm đoán như vậy bỗng nhiên tạo ra một loạt hệ quả không dự liệu được, và về sau người ta đã phải hủy bỏ Đạo luật đó. Thường thì các ý tưởng cấm đoán như vậy bắt nguồn từ một lập luận hoặc cảm nhận về đạo đức, rằng một hành động gì đó là không đáng có. Ví dụ uống rượu hay hút cần sa. Quả là trong xã hội luôn có một nhóm nhỏ thích làm những điều không phải là phù hợp với đám đông. Mà đạo đức thì lại thường do đám đông áp đặt. Nhưng khi đưa nó thành điều cấm đoán được pháp luật bảo hộ, họ không ngờ những hậu quả mới bỗng bùng lên. Ví dụ, các chất hay đồ uống gây nghiện lập tức tiến hóa để trở nên cô đặc, gọn nhẹ, và có sức phá hủy cao hơn bao giờ hết. Khi cấm đồ uống có cồn, người ta không còn thấy bia, mà chỉ thấy rượu rất nặng được mua bán lén lút. Vì làm như thế dễ giao dịch hơn. Còn ma túy, thì trong suốt lịch sử cấm đoán lâu dài của nó trong thời hiện đại, các chất ma túy đã không ngừng tiến hóa để trở thành những đặc chất ngày càng có sức công phá não bộ mạnh mẽ hơn bao giờ hết, được cô đặc và ngâm tẩm dưới những hình thức dễ tiêu thụ và tiện dụng nhất. Nếu không có sự cấm đoán khốc liệt đó, phải chăng loài người vẫn chỉ đang mơ màng với những loại cần sa nhẹ nhàng qua những ống hút mờ ảo đã tồn tại hàng trăm năm?

Thêm vào đó, như các bậc thầy của chủ nghĩa tự do, trong đó có Milton Friedman (giải Nobel Kinh tế 1976), đã chỉ ra sự cấm đoán đã giúp tạo ra một thị trường thực sự của các chất gây nghiện. Cụ thể là, các băng nhóm hình thành và sẽ phân chia thị trường ngầm của mình, trong mỗi thị trường đó, họ cố gắng mồi chài những thanh thiếu niên ngây thơ bằng cách phát không cho họ ma túy để dùng lúc đầu. Và vì thế, có một động lực trực tiếp cám dỗ và hủy hoại cuộc đời những đứa trẻ vô tội. Nhưng nếu không có cấm đoán, như ma túy có thể bán ở các tiệm thuốc như thuốc lá hay rượu bia (cho những người trên một độ tuổi nhất định), thì sẽ không băng nhóm nào còn động lực mồi chài các em, vì khi mồi chài được, các em cũng sẽ không phải là khách hàng trung thành của chúng (vì ma túy có thể mua được ở bất cứ đâu). Cũng như không có ai phát không cho chúng ta bánh mì để dụ ta mua bánh mì của họ vĩnh viễn, khi mà người ta có thể mua bánh mì từ bất cứ đâu. Do đó, những nhà kinh tế như tác giả của cuốn sách này lập luận, số người nghiện hút vì bị dẫn dụ lúc còn thơ bé sẽ giảm xuống. Sẽ chỉ còn những người tự tìm đến ma túy khi đã trưởng thành, như người ta đã lựa chọn hút thuốc và uống rượu vậy. 

Còn rất nhiều phân tích và thảo luận thú vị trong suốt cuốn sách này, dựa trên các công cụ thuần túy lý trí và suy luận logic của môn kinh tế học, cho ta thấy những cấm đoán có thể bóp méo hành vi và thị trường thế nào, kiến tạo nên những kết quả hoàn toàn ngược với mong đợi, đồng thời, hình thành một tầng lớp tham nhũng đặc quyền ăn bám trên sự duy trì cấm đoán đó, cũng như tạo nền tảng kinh tế và tài chính cho các băng nhóm phi pháp tồn tại và phát triển.

Dịch giả Phạm Nguyên Trường, ngoài công việc dịch thuật một cách công phu toàn bộ cuốn sách này, còn chọn lọc thêm năm tiểu luận (của các tác giả khác) cùng xoay quanh chủ đề này (liên quan đến sự cấm đoán ma túy, thuốc lá, và mại dâm) để đưa vào phần Phụ lục. Đó có thể coi đó là những thảo luận chính sách mang tính ứng dụng, minh họa, bổ sung thêm cho các lý thuyết và phân tích được trình bày trong sáu chương của cuốn sách. Nhờ thế, cuốn sách bạn đang cầm trở thành một tác phẩm thật dày dặn và cân đối.

Xét cho cùng, một cuốn sách mới, một bài học mới, hay một cuộc đối thoại với người ta mới gặp, chỉ mang lại giá trị thực sự khi nó đem lại một sự ngạc nhiên, đôi khi bàng hoàng hay một cái gì đó như thể vừa rạn vỡ. Bởi vì chúng ta đã khác đi ngay sau khi cái mới ấy đến với ta. Và đó mới đích thực là “cái mới”, là một cái gì đó có giá trị cho ta. Với quan niệm như thế, tôi tin rằng cuốn sách này là thứ mang đến cho các bạn những điều mới mẻ. Hãy đọc nó với một tư duy rộng mở, vị tha, và một cái nhìn không thành kiến của lý trí.

Xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả!

Nguồn: Nguyễn Đức Thành, Lời giới thiệu cho cuốn sách "Kinh tế học cấm đoán" của Mark Thornton, NXB Lao Động, 11.2016